Khổ đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện tượng. Do đó vấn đề Nhân quả ở mặt nào đó, chúng được coi như là nhân tố quyết định cho mọi giá trị đánh giá về cuộc sống, mà đức Đạo sư khi còn tại thế thường dạy cho đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài, theo đó cuộc sống được thể hiện qua khổ đau hay hạnh phúc đều do hành động của chính chúng ta mang lại ngay trong hiện tại hay trong tương lai. Cũng vì vậy cho nên Tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên, khi còn ở đời Ngài đã lấy những lời dạy về năm pháp này của đức Phật để triển khai rộng ra trong A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận . Theo đó năm pháp này được Tôn giả liên hệ duyên khởi với ba độc tham, sân, si qua sự thể hiện nhân quả của ba nghiệp thân, khẩu, và ý, trong việc tự mình đem lại đau khổ cho chính mình, nếu phạm vào năm pháp này, và khuyên người khác phạm vào năm pháp này. Ngược lại tự mình muốn đem lại hạnh phúc cho chính mình thì bằng cách xa lìa năm pháp này, và khuyên kẻ khác cũng xa lìa năm pháp này nếu họ muốn có hạnh phúc. Theo Tôn giả, thì đức Phật đã dạy năm pháp này như sau:

- “Khi đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, trong rừng Thệ-đa , tại Thất-la-phiệt , thì bấy giờ Thế Tôn bảo các Bí-sô:

- “Nếu những ai chưa dứt bặt hết được năm điều tội oán đáng sợ này, thì đối với đời sống hiện tại họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được gọi là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê cười, phát sinh nhiều điều phi phước; khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào đường hiểm ác, sinh vào trong địa ngục.

“Những gì là năm? Đó là:

- “Sát sinh; do nhân duyên sát sinh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa sát sinh, đó gọi là (tội oán) thứ nhất.

- “Lấy của không được cho; do nhân duyên trộm cắp nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa trộm cắp, đó gọi là (tội oán) thứ hai.

- “Dục tà hạnh; do nhân duyên tà hạnh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa tà hạnh, đó gọi là (tội oán) thứ ba.

- “Lời nói hư dối, do nhân duyên lời nói hư dối nên sanh ra tội oán sợ hãi; không tránh xa lời nói hư dối, đó gọi là (tội oán) thứ bốn.

- “Uống nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật; do nhân duyên uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật nên sanh ra tội oán sợ hãi; không tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là (tội oán) thứ năm.

- “Ai chưa dứt hết được năm điều tội oán đáng sợ hãi như vậy, thì đối với đời sống hiện tại, họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được gọi là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê cười, phát sinh nhiều điều phi phước; khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào đường hiểm ác, sinh vào trong địa ngục.

- “Những ai có khả năng dứt bặt hết năm điều tội oán đáng sợ hãi này, thì đối với đời sống hiện tại, họ sẽ được các vị Hiền thánh cùng khâm phục khen ngợi; được gọi là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có tội, không bị chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân hoại mạng chung được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung . Những gì là năm? Đó là:

- “Tránh sát sinh, do nhân duyên tránh sát sinh nên diệt được tội oán sợ hãi; tránh được sát sinh, đó gọi là (trường hợp) thứ nhất.

- “Tránh không cho mà lấy, do nhân duyên tránh được trộm cắp, nên diệt được tội oán sợ hãi; có khả năng diệt được trộm cắp, đó gọi là thứ hai.

- “Tránh xa dục tà hạnh, do nhân duyên tránh xa được dục tà hạnh nên diệt được tội oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa tà hạnh, đó gọi là thứ ba.

- “Tránh xa lời nói hư dối, do nhân duyên tránh xa lời nói hư dối nên diệt được tội oán sợ hãi; có khả năng diệt được lời nói hư dối, đó gọi là thứ bốn.

- “Tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, vì tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật nên diệt được tội oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là thứ năm.

- “Ai có khả năng dứt hết năm điều tội oán sợ hãi như vậy, thì người đó đối với đời sống hiện tại được các vị Hiền thánh đồng khâm phục khen ngợi, được gọi là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có tội, không bị chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân hoại mạng chung được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung. Sau đó Thế Tôn liền nói kệ để tóm lại nghĩa trên rằng:

Các hành sát, đạo, dâm,

Nói dối, ham các rượu;

Bị năm tội oán trói,

Bị Thánh hiền chê trách.

Là phạm giới tự hại,

Có tội, chiêu phi phước;

Chết rơi đường hiểm ác,

Sinh vào các địa ngục.

Tránh các sát, đạo, dâm,

Hư dối, các thứ rượu;

Thoát năm oán đáng sợ,

Thánh hiền đều khen phục.

Là trì giới, tự giữ,

Không tội, cảm nhiều phước;

Chết về đường an lành,

Sanh vào trong Thiên giới.”

- Đó là năm pháp được đức Phật thuyết giảng cho các hàng cư sĩ tại gia vào lúc bấy giờ, và được tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên lập lại trong: ‘A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận.’ của ngài. Trong năm pháp này, đứng về mặt muốn đạt đến hạnh phúc mà nói, thì bốn cấm giới đầu thuộc về tánh giới , còn giới thứ năm chỉ là giá giới , được đức Phật thiết lập, làm nền tảng cơ bản cho cả hai hàng xuất gia và tại gia trong việc thanh tịnh hóa cuộc sống qua sự thể hiện thân và tâm, để từ đó làm nhân cho cuộc sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, hay trong tương lai cho cõi Nhân-Thiên sau này. Cũng chính vì điều này mà ngũ giới cũng còn được gọi là ngũ đại thí . Ngược lại nếu không thực hành năm điều cấm giới này mà phạm vào chúng thì coi như hậu quả theo sau đó sẽ đưa đến cuộc sống khổ đau trong hiện tại, hay sẽ rơi vào cuộc sống khổ đau trong đường hiểm ác nơi địa ngục trong tương lai. Trong năm giới này tuy bốn giới đầu chúng thuộc về tánh giới, nhưng đối với hàng tại gia thì có khác với hàng xuất gia trong việc khai-giá-trì-phạm , và cũng có thể tùy theo hoàn cảnh sống, và duyên nghiệp của mọi người tại gia mà theo đó có thể gia giảm trong việc trì phạm, hay theo khả năng của mỗi người mà áp dụng theo giới mà mình đã nguyện thọ trì trong khi truyền giới và nhận giới của họ, chứ không bắt buộc phải giữ hết năm giới; trường hợp nếu nguyện thọ trì hết năm giới thì tốt. Trong năm giới đối vời hàng cư sĩ tại gia chỉ có một giới thứ ba là khác một chút đối với năm giới của các hàng xuất gia là, chỉ khi nào vượt qua giới hạn chức năng làm chồng hay làm vợ mà thôi, vì giới này chỉ cấm tuyệt hẳn dành cho hàng xuất gia, còn tại gia thì vì chức năng làm vợ làm chồng, và chức năng kế tục giữ gìn nòi giống, nên chỉ cấm việc tà dâm mà thôi. Do đó, người nam hay người nữ thuộc hàng tại gia chỉ bị giới hạn trong tà dâm (tà hạnh). Đây là năm cấm giới đối với hàng cư sĩ tại gia, nếu người nào áp dụng và thực hành trọn vẹn thành tựu năm pháp này thì mới đưa đến hạnh phúc một cách trọn vẹn, và thật sự sẽ được sinh về cõi trời sau khi qua đời, còn nếu không thì phải tùy theo giới mà mình đã trì giữ nhiều hay ít, có trọn vẹn giới ấy hay không mà có kết quả theo việc làm của mình là có hạnh phúc ít hay nhiều trong hiện tại hay trong tương lai nơi cõi người, hay cõi trời.

- Ở đây, vấn đề khổ đau, hay hạnh phúc có được đều bắt nguồn từ hành động gây nhân trước đó để đưa đến hậu quả tất yếu phải nhận lãnh do thân-khẩu-ý đã gây ra từ năm pháp mà ra. Đối với năm pháp Giết sanh mạng, Trộm cắp, Tà hạnh, Nói dối, Uống rượu này mà chúng ta tạo tác hay hành động theo động cơ thúc đẩy của Ý qua ý hành, thân hành, và khẩu hành, thì đó là nguyên nhân dẫn đến hậu quả thiện hay ác, tùy đó mà có kết quả hạnh phúc hay đau khổ có được của chúng ta theo sau chúng. Vậy sự hợp tác giữa năm pháp này và ba hành thân-khẩu-ý chúng đẻ ra ba nghiệp thân-khẩu-ý dẫn dắt chúng ta đi đến nơi khổ đau hay hạnh phúc đều tùy thuộc vào hành động hay sự tạo tác của chúng ta. Từ đây chúng ta thấy sự liện hệ duyên khởi thuận-nghịch rất rõ ràng bắt đầu từ hành động giết hại sanh mạng hay không giết hại sanh mạng; trộm cắp hay không trôm cắp, tà dâm hay không tà dâm; nói dối hay không nói dối; uống rượu hay không uống rượu. Và cũng từ đây chúng ta thấy sự liên hệ bắt đầu từ năm pháp này đối với tất cả những pháp khác qua duyên khởi chúng trở thành trùng điệp không đầu không mối. Chỉ mới trong năm pháp này mà chúng ta đã nhận ra được sự liên hệ của chúng đến Duyên khởi, đến Nhân duyên, đến Nhân quả, đến Nghiệp báo, đến ba cõi, sáu đường, đến luân hồi v.v... nói chung là liên hệ đến các pháp. Chính vì sự liên hệ nhân quả duyên khởi này mà Năm pháp đã trở thành pháp căn bản mấu chốt của mọi vấn đề giải quyết khổ đau và hạnh phúc của con người, cho dù là xuất gia hay tại gia.

- Chúng ta mỗi người bất đầu tu từ đây, và cũng kết thúc từ đây, nghĩa là đối với năm pháp này cần phải bắt đầu áp dụng vào thực hành, thì chúng ta mới thấy được cái giá trị của chúng sẽ đưa đến tốt hay là xấu, khổ đau hay là hạnh phúc. Cũng cùng áp dụng và thực hành một pháp, nhưng chúng sẽ cho chúng ta hai kết quả trái ngược nhau; nếu chúng ta biết cách áp dụng và thực hành đúng thì chúng sẽ dẫn đến kết quả tốt, hạnh phúc; ngược lại nếu áp dụng sai thì chúng sẽ dẫn đến kết quả xấu, khổ đau. Đức Phật đã đứng trên lập trường Nhân quả mà nói về nguyên nhân tạo tác năm pháp có thể đưa đến đau khổ, hay hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai.



NĂM PHÁP CÓ THỂ ĐƯA ĐẾN

ĐAU KHỔ HAY HẠNH PHÚC



1- Sát sinh hay tránh xa sát sinh:

- Trong giới hạn của bài này, thì sinh ở đây chỉ cho các loài chúng sanh có tình thức, biết ham sống, sợ chết như loài người là tội chính, còn các loài sinh vật nhỏ bé nhất như vi trùng đã có mạng sống thì thuộc tội nhẹ. Ở đây chúng tôi chỉ nói đến giết hại mạng sống của con người, nên những chúng sanh này mà ta vô cớ giết hại chúng, thì sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

Có năm điều kiện hội đủ để trở thành tội sát sinh:

a/ Đối tượng phải là người.

b/ Tưởng là người.

c/ Cố ý giết.

d/ Phương tiện.

e/ Người chết.

- Sau khi chúng ta hoàn thành việc giết người, thì hành động đã tạo tác xong trở thành nghiệp nhân. Tùy theo ý hợp tác với lời nói để đưa đối tượng đến chỗ chết, hay bằng đồ vật do chân tay mang lại cái chết cho đối tượng, thì theo đó trở thành ý nghiệp, thân nghiệp, hay khẩu nghiệp. Từ nghiệp nhân này đưa đến nghiệp quả phải nhận lãnh ngay trong hiện tại, hay ở đời sau còn tùy thuộc vào sự đầu thú hay không đầu thú của thủ phạm, đã bị phát hiện hay không bị phát hiện, mà nhận lãnh quả báo.

- Trường hợp nếu đầu thú sớm, thì sẽ có kết quả sau đó do tòa án phán quyết, hoặc bị tội tử hình, hoặc tội chung thân khổ sai; nếu không đầu thú hay không bị phát hiện, thì trong hiện tại tuy trên hình thức chưa chịu quả báo tù tội khổ đau, nhưng trên thực tế có thể tâm thần không được an ổn, luôn lo sợ bị phát hiện, và đây cũng là một hình thức chịu quả tuy là chưa chính thức, nhưng cuối cùng kiếp sau cũng phải nhận quả mà thôi. Như vậy sự khổ đau trong hiện tại đang chịu là nghiệp quả được sinh ra từ những hành động tạo tác trước đó trong quá khứ đời trước, chúng di hại di truyền cho đến ngày nay, chúng ta gọi là nghiệp nhân. Từ nghiệp quả chủng tử di truyền hiện hữu này, cọng với chủng tử nghiệp nhân tạo ra trong hiện tại, chúng ta có một thứ Nhân-quả mới trong hiện tại, và từ cái nhân được tạo ra trong hiện tại chúng sẽ dẫn đến cái quả sau đó ở ngay trong cuộc sống này hay kiếp sau, và cứ như thế chúng ta cứ tạo nhân, nhận quả trôi dạt mãi trong ba nẻo ác luân hồi khổ đau. Đây là chúng tôi mới chỉ đề cập đến nhân quả thuộc phân đoạn sinh tử, chứ chưa nói đến nhân quả trong biến dịch sinh tử, thay đổi trong từng sát na một. Nhân quả mà chúng tôi đang đề cập ở đây cũng mới chỉ là thứ nhân quả do Chánh báo cá nhân tạo ra chứ chưa nói đến nhân quả do Y báo tập thể cộng đồng xã hội tạo ra nhân và hưởng quả tương tác với nhau. Vì một người nhận lãnh kết quả của chính mình trong hiện tại mang cả hai đặc tánh vừa mang nhãn hiệu Chánh báo cá nhân mình, và vừa mang nhãn hiệu Y báo cộng đồng xã hội, từ cha mẹ anh em gia đình cho đến xã hội mà mình xuất hiện ra đời. Sự hổ tương duyên khởi này đã tạo ra chính cuộc sống mà nạn nhân đang hiện hữu theo đó chúng có những đặc thù riêng biệt mà chỉ nơi đó có mà thôi, thí dụ như cõi người, cõi trời, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. v.v... chúng có những đặc tính riêng của từng nơi thuộc Y báo mà Chánh báo chúng khế hợp duyên đủ đối với nơi họ đến mà không có nơi nào khác lẫn lộn đối với họ. Sự liên hệ Duyên khởi nơi dây chính là sự liên hệ huyết thống, màu da, xứ sở, giàu nghèo, tốt xấu, khổ đau, hạnh phúc. v.v... và đó cũng chính là kết quả của sự hình thành liên đới giữa Biệt nghiệp và Cộng nghiệp của cá nhân và xã hội chúng thể hiện ra trong cõi đó.

- Tại sao chúng ta giết hại sanh mạng lại đưa đến khổ đau? Như đức Phật đã dạy ở trên sát sinh sẽ đưa đến tội oán đối lẫn nhau. Vậy từ sự sát hại sinh mạng này sẽ đưa đến sự liên hệ liên kết lẫn nhau giữa nhân và quả trong hiện tại cũng như trong tương lai qua định luật duyên khởi. Sự liên hệ hổ tương duyên khởi này nói lên đặc tính thành tựu và hủy diệt của các pháp trong duyên đủ; về một mặt nào đó chúng có thể thành tựu đồng thời khổ đau hay hạnh phúc, và ngược lại chúng có thể hủy diệt đi cũng đồng thời khổ đau hay hạnh phúc. Do đó, khi mà có sự hiện diện của sát hại thì đồng thời cũng nảy sanh ra hai thái cực trong cái thành tựu của khổ đau cho người này, thì sẽ nảy sanh cái hủy diệt dành cho hạnh phúc người khác, vì vậy mà oán đối phát sinh, và khi oán đối đã phát sinh thì khổ đau sẽ hiện hữu. Giữa chủ thể giết hại và đối tượng bị giết hại, cả hai đều bình đẳng trên tánh giác, cho dù có thể sai biệt hay khác nhau trên hình tướng, giai cấp, giàu nghèo, sắc màu, tôn giáo v.v... đi nữa, chúng cũng có đủ mọi thứ quyền như tất cả mọi người, có đủ mọi thứ tình cảm, mọi thứ bản năng, mọi thứ lý trí như mọi người, và những thứ này được hướng đạo bỡi một chủ thể tạm cho là ngã, là tôi, hay là ta. Từ cái ngã, tôi, ta này phát sinh ra đủ thứ chuyện nhằm củng cố, và nuôi dưỡng chúng lớn mạnh thêm qua sự thúc đẩy vô hình của tham, sân, và si từ bên trong, mà đức Phật gọi là ba độc. Chúng sử dụng thân-khẩu-ý như là một thứ công cụ để tạo ra mọi việc có lợi cho mình trong việc nuôi lớn cái chấp ngã vô minh, và hủy diệt, san bằng bất cứ chướng ngại nào cản bước đường tiến tới. Chính vì cái vô minh tà kiến chấp ngã này đẻ ra cái vô minh tà kiến chấp pháp, và từ đây có của ta, và có những cái liên hệ đến ta, có những sở hữu của ta: có đất nước ta, có dân tộc ta, có dòng họ huyết thống của ta, có tổ tiên ta, có ông bà cha mẹ ta, có vợ chồng con cái ta, có sắc tộc ta, có tôn giáo ta, có châu lục ta, có ngôn ngữ ta, có đủ thứ trên đời của ta. Cũng từ đó sanh ra chiếm hữu, và mọi cuộc chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành đủ thứ xảy ra, an ninh trật tự bắt đầu mất an ninh, cuộc sống của mọi người mọi sinh vật cũng từ đây bất an, chuyện giết hại lẫn nhau không tránh khỏi và đau khổ lầm than bắt đầu hiện hữu. Suốt hai thiên niên kỷ qua, lớn thì qua hai cuộc thế chiến; nhỏ thì không biết bao nhiêu mà kể, nào là chiến tranh giữa các tôn giáo với nhau, nào là thánh chiến, nào là thập tự chinh, nào chiến tranh giữa các sắc tộc với nhau, chiến tranh ý thức hệ với nhau, chiến tranh xâm lược chiếm thuộc địa, chiến tranh vì chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc cũ, chủ nghĩa đế quốc mới v.v... Những cuộc chiến tranh như vậy, trước hết chúng bắt nguồn từ những xung đột vô thức giữa các cộng nghiệp với nhau, giữa các biệt nghiệp với nhau trong một cái cộng nghiệp chung của kiếp người trên mặt đất này, mà mấu chốt chúng cũng bắt nguồn từ vô minh hoặc nghiệp tà kiến của những thứ cộng nghiệp, hay các biệt nghiệp đã di truyền từ chủng tử kiếp trước di hại lại cho đến cái quả đời hiện tại, cọng với cái nhân của các hành động vô minh tà kiến trong hiện tại do chính chúng ta và hoàn cảnh luân lý xã hội tạo ra, đã tạo thành một thứ bản ngã cá nhân và tập thể khó bề thay đổi được. Chúng luôn luôn thúc đẩy mọi người lo bảo vệ và nuôi lớn vô minh tà kiến chấp ngã chấp pháp càng nhiều càng tốt, nên việc xung đột càng ngày càng trở nên gay gắt và nghiêm trọng hơn. Những sự kiện đấu tranh để sinh tồn càng trở nên sâu sắc và thủ đoạn hơn, với mục đích là triệt hạ những gì không thuộc về của ta và tóm thâu những gì nếu mình muốn thuộc về mình. Vì vậy những cuộc chiến tranh về sau này, càng trở nên khốc liệt và bạo tàn hơn, dưới mọi hình thức và bất kể thủ đoạn, con người giết hại tàn sát lẫn nhau, không những chỉ có con người giết hại con người mà con người còn giết hại bao nhiêu sinh vật khác, triệt hạ cả những môi trường sống chung quanh, miễn sao thõa mãn được lòng tham, lòng thù hận trả thù, lòng ích kỷ, có lợi cho cá nhân mình, tập thể mình, đất nước mình, tôn giáo mình, sắc tộc mình thì họ làm chứ họ không cần đến hậu quả di hại chung cho cả thế giới. Trong khi họ thõa mãn được lòng tham, lòng thù hận qua hành động si mê của mình như vậy là tạo ra tội oán đối, nhưng họ đâu có biết rằng chính hành động của họ là nguyên nhân đẩy người khác vào chỗ đấu đầu thù hận ngay trong hiện tại cũng như mai sau. Nếu họ chỉ cần biết nhìn ra cái đau khổ oán hận nơi người khác qua chính mình, thì có lẽ họ không bao giờ có hành động sát hại để di hại đến khổ đau oán hờn đối với những người khác, và cũng không bao giờ nhân danh mình hay nhân danh bất cứ ai, hay bất cứ chủ nghĩa nào, tôn giáo nào, hay bất cứ khuynh hướng chính trị nào để khuấy động chiến tranh chén giết lẫn nhau mà thu lợi về mình. Vì tất cả những nhân danh đó đều là trá hình của chấp ngã chấp pháp mà thôi, rốt cuộc tự chính ta tạo ra tội oán đối với những hoàn cảnh liên hệ duyên khởi chung quanh, đáng lý ra chúng phải được nuôi dưỡng và trân trọng để tạo ra hạnh phúc an vui cho chính con người và xã hội; đằng này chúng ta tạo ra sự xung đột sát hại lẫn nhau, khiến cho xã hội bất an, mà khi xã hội bất an là chính chúng ta những người tạo ra chiến tranh sát hại cũng bất an; vì giữa ta và xã hội có sự liện hệ duyên khởi mật thiết (cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh; cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt) đó là một định luật tất yếu của cuộc sống, không thể thiếu được. Một người nếu sát hại mạng sống kẻ khác thì sẽ dẫn đến những hậu quả sau đây: Trước hết đối với bản thân họ hai trong ba hành này sẽ liên quan trực tiếp đến cái chết đó là ý hành cùng với thân hành hay khẩu hành, điều này tùy thuộc vào hành nào đi chung với ý hành để đưa đến cái chết cho đối tượng. Ý hành lúc nào cũng có trước và điều động hai hành kia thi hành theo nó, như khi ý phát khởi lên ý giết hại người để cướp đoạt tài sản của kẻ khác chẳng hạng, hay do lòng thù hận trả thù, hoặc do lừa đảo lường gạt để kiếm lợi về mình, thì thân hành theo sự điều động của ý đi đến chỗ muốn cướp, bằng đủ mọi cách thân hành động khiến cho khổ chủ chết đi, thì người này mang hai nghiệp sát sinh của ý và của thân. Trường hợp muốn giết người cướp của qua ý sai khiến miệng nói khiến cho kẻ khác không chịu được ôm hận hay nhục mà chết, hay nói để lừa gạt được người, đưa thân chủ đến chỗ chết, thì người này mang hai nghiệp thuộc ý và khẩu. Khi họ hoàn thành việc sát hại kẻ khác như vậy thì nghiệp sát cũng theo đó mà hình thành, và tạo thành nhân sát hại sinh mạng, và từ đây sẽ đưa đến hậu quả của nó theo sau đó, trong hiện tại hay trong tương lai. Trường hợp nếu án mạng này bị phát hiện và tìm ra được thủ phạm ngay trong hiện tại, thì hậu quả của nó sẽ tùy theo pháp luật hiện hành của nhà nước vào lúc đó mà bị phạt tử hình hay tù chung thân gì đó. Trường hợp nếu không bị phát hiện và được bỏ qua, thì nghiệp quả sẽ trả vào kiếp sau đối với chính mình trong đường hiểm địa ngục như Phật đã dạy ở trên. Đó là nói về bản thân của người sát hại kẻ khác, còn bản thân của những kẻ bị giết hại thì ôm lòng thù hận, quyết định phải trả thù; từ đây oán đối hình thành, tạo nghiệp sân hận, và si mê thuộc ý, và cứ như thế theo nghiệp duyên tạo thân, thân tạo nghiệp trôi lăn mãi trong sáu đường luân hồi vay trả, trả vay không bao giờ thoát khỏi khổ đau. Đó là chúng ta mới đề cập đến cá nhân người sát hại, và người bị sát hại, nhưng mỗi cá nhân như vậy chúng hiện hữu và có giá trị được là nhờ sự hiện hữu của đồng loại, và mọi sự vật chung quanh, vì chúng liên hệ theo định luật duyên khởi. Vậy khi một người giết hại người khác thì chính cả đồng loại và mọi sự vật cũng chịu liên hệ liên đới với nhau trong tội sát này, và đối với sự oán đối thù hận của kẻ bị giết, cũng can hệ mật thiết đối với đồng loại và mọi sự vật chung quanh. Thật là thú vị với tư tưởng này chúng ta có thể liên hệ về một khía cạnh nào đó, với nếp sống của dân tộc Việt nam trong phong dao tục ngữ thì cũng có những câu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng này như : ‘Con dại cái mang’ hay ‘Mũi dại lái chịu đòn.’ Tuy ở đây chỉ nói lên được cái liên hệ huyết thống, hay liên hệ tập thể trong một chừng mực nào đó, nhưng chúng cũng nói lên được tính đặc thù của tư tưởng này, nếu chúng ta biết tư duy và liên hệ sâu xa một tí nữa về nhiều mặt như: chánh trị, xã hội, kinh tế, quân sự, y tế, giáo dục, văn hoá, vân vân và vân vân, thì chính tư tưởng này nó bao trùm tất cả mọi liên hệ trong cuộc sống của chúng ta.

- Do đó mỗi hành động của chúng ta được hình thành thì theo đó di truyền lại cho kết quả trước hết là cá nhân và sau nữa là tập thể xã hội. Một người bị giết hại ngoài sự mất đi một thành viên trong một gia đình, trong một cộng đồng xã hội thôi, mà nó còn di hại đến hiệu quả sản xuất, hay tiêu dùng cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc cung cầu nữa, như trên chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu như sát hại sinh mạng chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội. Như hiện tại vấn đề môi trường sinh thái đã đang và sẽ được cả toàn thể các quốc gia trên thế giới ra sức tuyên truyền về việc tác hại của chiến tranh giết người và, ra sức bảo vệ các loài động thực vật một cách nghiêm ngặt, từ trên rừng cho đến dưới biển; không cho con người sát hại một cách bừa bãi và tùy tiện, là nhằm bảo vệ môi trường sống cho nhân loại, nếu không có chúng thì nhân loại và vạn vật trên trái đất này sẽ đi đến chỗ diệt vong không xa.

- Như vậy, qua pháp giết hại sinh mạng, nó có những tai hại đối cá nhân và xã hội cho hiện tại như đức Phật đã dạy ở trên, và mặc khác nó còn di hại trong tương lai qua biệt nghiệp và cọng nghiệp nơi quốc độ mình phải đến như địa ngục. Đức Phật hoàn toàn chính xác trong việc khuyên con người không nên sát hại các sinh vật khác trong đó con người là chính, trước hết nếu tránh không giết hại sinh mạng thì sẽ không tạo ra tội oán đối với người với vật. Như vậy nghiệp thân-khẩu-ý không thành, thì ba độc tham, sân, si không hiện hữu trong sát hại. Ở đây vì nhân sát hại của thân-khẩu-ý không tạo ra, nên không có hậu quả tù tội, giam cầm, hay bị người ghét bỏ, sống an lành không bị xáo trộn lo toan, và sau khi thân hoại mạng chung vì không tạo nghiệp sát hại thân-khẩu-ý nên không sanh về đường hiểm ác địa ngục chịu đau khổ, mà được sanh về cõi trời hưởng nhiều hạnh phúc. Trong pháp này nếu người nào tránh khỏi không sát hại thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ nhất trong năm học xứ trên.

2- Không cho mà lấy hay tránh xa không cho mà lấy:

- Đây là pháp thứ hai còn gọi trộm cướp, hay tránh xa không trộm cướp. Ở đây, chỉ chung cho những vật không thuộc sở hữu của mình mà muốn thành của mình, chủ vật sở hữu không cho mà chúng ta đem tâm trộm cướp lấy cho mình, dù là vật đó để ở nơi đâu mà có chủ thì không được không cho mà lấy. Hành vi hủy phạm vào giới không cho mà lấy thứ hai này, cũng tùy thuộc vào những vật mà chúng ta đã lấy nhiều hay ít, có giá trị nhiều hay giá trị ít, theo đó tội cũng tùy thuộc vào chúng là nặng hay nhẹ, và như vậy sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiên tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

- Nếu là nặng thì thành tội bất khả hối và, chúng phải hội đủ sáu điều kiện sau đây:

1/ Tài vật của người khác.

2/ Biết rõ tài vật đó là của người chứ không phải của mình.

3/ Khởi lên tâm trộm cướp, hay có tâm dự mưu trộm cướp trước.

4/ Tìm cách lấy và hoàn thành mục đích trộm cướp.

5/ Tài vật được trị giá là năm tiền. (giá trị của tài vật này còn tùy thuộc vào quốc độ sở tại của nó về việc người trộm bị lên án tử hình nếu như trộm cướp vật trị giá như vậy).

6/ Dời khỏi chỗ cũ.

- Đó là sáu điều kiện đủ để kết án, khi nào hành động của chúng ta đã hoàn thành việc trộm cướp vật của người khác không cho mà lấy. Giới này cũng như giới thứ nhất, sự hoàn thành một kết quả hành động phải từ tâm có ý nghĩ trộm cướp vật của người kinh qua lời nói của miệng hay hành động của thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy được xã hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, hay khi hành động đó có hại cho vật người khác với giá trị từ năm tiền vàng trở lên, hay bao nhiêu tùy thuộc vào quốc gia, xã hội đó ấn định, thì người phạm vào giới này mắc vào tội trọng không cho sám hối để trừ tội và, trong tương lai sẽ đọa vào trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu báo khổ đau, tùy theo nơi họ bị đọa vào.

- Cũng như giới thứ nhất sự tác hại hỗ tương của nó trong hiện tại cũng như những di hại hỗ tương trong tương lai không khác gì với giới thứ nhất, chúng chỉ khác nhau trên mặt hiện tượng về tội danh thôi, nhưng về kết quả phải chịu nặng nhẹ đồng nhau. Do đó mỗi hành động của chúng ta được hình thành thì theo đó di truyền lại cho kết quả trước hết là cá nhân và sau nữa là tập thể xã hội. Một người cướp của giết người, ngoài sự mất đi an ninh trật tự của một xã hội, nó làm mất đi một thành viên trong một gia đình, trong một cộng đồng xã hội, trong việc di hại đến hiệu quả sản xuất, hay tiêu dùng cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc cung cầu nữa, như trên chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu như cướp của giết người chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội, như trong vấn đề an ninh trật tự xã hội, vấn đề kinh tế của một quốc gia. Nếu tất cả mọi người không lo làm ăn mà ai cũng ngồi đó, chờ cho kẻ khác làm sẵn ra tiền bạc của cải, rồi mình ra tay cướp lấy để mình tiêu xài, thì gia đình đó, xã hội đó sẽ đi đến đâu? chắc chắn là sẽ đưa tất cả mọi người đến chỗ mất an ninh trật tự, nghèo nàn, lạc hậu khổ đau và, cuối cùng là chết đói, gia đình xã hội tan rã.

- Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta, ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất. Trong pháp này nếu người nào tránh khỏi không trộm cướp thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ hai trong năm học xứ trên.

3. Dục tà hạnh hay tránh xa dục tà hạnh:

- Đây là pháp thứ ba, còn gọi là dục tà hạnh, hay tránh xa dục tà hạnh. Ở đây trừ qua hệ nam nữ giữa vợ chồng có hôn thú, ngoài ra tất cả những quan hệ với nam nữ mà luật pháp quốc gia, hay đạo đức của một xã hội nơi chúng ta cư trú không cho phép, thì đều là những quan hệ bất chính còn gọi là tà hạnh hay tà dâm. Như kinh Viên Giác nói: ‘Tất cả các loài chúng sanh trong các thế giới, dù sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh nơi ẩm thấp, hay hoá sinh, mà hiện hữu được thì cũng đều phát xuất từ dâm dục mà có tánh mạng.’ Đủ để nói lên sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này chính là sự tồn tại của dâm dục. Do đó nếu muốn chúng sinh phàm phu dứt hẳn dâm dục, thì đó là một điều khó khăn khó thực hiện được trong một sớm một chiều. Do đó đức Đạo sư đã phương tiện cho những chúng sinh tại gia ở cõi dục chỉ được giới hạn trong sinh hoạt vợ chồng mới tạm gọi là chính đáng. Chúng sanh ở cõi này muốn dứt hết dâm dục thì phải tu chứng đến tam quả A-na-hàm , và như vậy chỉ dành cho hàng xuất gia, trong việc toàn đoạn dâm dục.

- Sự an lập của chúng sanh trong cõi thế gian này, chủ yếu do sự hoà hợp giữa nam và nữ khi được gọi là vợ chồng. Sự hoà hợp trong sinh hoạt vợ chồng này nếu là bình thường thì sẽ không mang đến cho xã hội những bi kịch xáo trộn, mang lại mọi hạnh phúc cho mọi cá nhơn, mọi gia đình trong một xã hội. Ngược lại chúng mang lại cho mọi người, mọi gia đình những đổ vỡ trong quan hệ vợ chồng, cha con, mẹ con, người thân trong gia đình, ra đến bạn bè trong xã hội; mang đến cho mọi người một cuộc sống bất an xáo trộn do sự liên hệ bất bình thường, vượt qua khỏi giới hạn của vợ chồng. Từ đây cũng sẽ dẫn đến những cái chết mà nói ra thì không ai muốn, nhưng trên thực tế hằng ngày thường xảy ra luôn: bị giết vì giam dâm, vì tình, vì hiếp dâm, dụ dỗ, vì thông dâm, đồng lòng thông dâm phá hoại gia đình v.v… Và cũng sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

- Vì muốn tạo hạnh phúc an lạc cho nhân gian nên đức Phật đã chế định dục tà hạnh cho nam nữ cư sĩ tại gia.

- Dục tà hạnh phải hội đủ bốn điều kiện thì phạm tội nặng bất khả hối:

1/ Đúng đối tượng.

2/ Có tâm dâm.

3/ Đúng ba nơi là đường miệng, đường tiểu tiện và, đường đại tiện mà hành dâm.

4/ Tác thành sự thật hành dâm, cho dù hai căn của nam và nữ chỉ vào một chút như hạt mè, cũng thành tội bất khả hối.

- Giới này vì dành cho chúng sanh tại gia cho nên chỉ giới hạn trong phạm vi vợ chồng, mục đích là mang đến hạnh phúc an lạc cho chúng sanh cõi dục này, chứ chưa nhằm đến mục đích giải thoát, nên trong kinh Ưu-bà-tắc ngũ giới tướng đức Phật có Khai cho người tại gia nam là: ‘Nếu Ưu-bà-tắc nào cùng dâm nữ hành dâm, không trả tiền, thì phạm tà dâm bất khả hối, còn trả tiền thì không phạm’ . Nhưng: “Trong Đại thừa Bồ-tát giới, nếu không phải là Bồ-tát địa thượng (bậc sơ địa trở lên), vì nhân duyên nhiếp hoá, chẳng được có hành vi này ”. Thật sự, ở đây có sự khác biệt như vậy là vì một đằng đức Phật muốn chúng sanh tại gia có cuộc sống hạnh phúc đứng về mặc luân lý xã hội, và mặc khác là đứng về phương diện đạo đức giải thoát, nên có sự mâu thuẫn giữa kinh Ưu-bà-tắc và Đại thừa Bồ-tát giới kinh. Đây chính là Giới được đức Phật Khai (trong khai-giá-trì-phạm) cho các cư sĩ tại gia; và cũng là cư sĩ tại gia nhưng đã thọ giới Bồ-tát rồi thì dứt khoát không được phạm (giá) vào hành vi này. Đây là một vấn đề tế nhị và phức tạp, cho nên ngay trong giới này đức Phật cũng giới hạn và mở cho những đối tượng nào, tuỳ theo căn cơ mà các chúng sanh đó nguyện thọ trì, thì theo đó mà khai hay giá. Và giới này đức Phật cũng căn cứ vào xã hội Ấn độ vào lúc bấy giờ, do đó việc chế giới cũng tuỳ thuộc vào xã hội đó. Hiện tượng trên là hiện tượng phổ biến tại xã hội Ấn độ vào lúc đó, nên đức Phật cũng phải căn cứ vào xã hội đó mà chế giới. Nhưng hiện tượng này đối với Việt nam, hay nhiều xã hội khác trên hành tinh này cho là một hiện tượng không lành mạnh, không phải là tấm gương tốt của người thiện, thì chúng ta cũng căn cứ vào những lời dạy của đức Phật về việc Khai-Giá-Trì-Phạm đối với giới luật như thế nào để chúng ta cũng theo đó mà hoàn thành một cuộc sống hạnh phúc an lành ngay trên trái đất này. Vì theo đức Phật, việc chế giới Ngài luôn luôn căn cứ vào tướng phạm để mà chế. Nhưng tướng phạm thì luôn tuỳ thuộc vào sinh hoạt luân lý thói quen tập quán của xã hội đó chúng hình thành. Vì vậy đối với hiện tượng này, khi chúng ta đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp rồi thì chúng ta cũng nên coi đây là một hành vi tà dâm, vì một mặc chúng nuôi lớn dục tham của con người.

- Giới này cũng như giới thư nhất, thứ hai, sự hoàn thành một kết quả hành động phải từ tâm có ý nghĩ dục tà hạnh kinh qua lời nói của miệng hay hành động của thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy được xã hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, khi hành động đó có hại cho người khác, thì người phạm vào giới này mắc vào tội trọng không cho sám hối để trừ tội, và trong tương lai sẽ đọa vào trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu báo khổ đau, tùy theo nơi họ bị đọa vào.

- Sự tác hại liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như hai giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa dục tà hạnh thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ ba trong năm học xứ trên.

4. Lời nói hư dối, hay tránh xa lời nói hư dối:

- Đây là pháp thứ tư, còn gọi là lời nói hư dối, hay tránh xa lời nói hư dối. Ở đây, lời nói hư dối mang phong cách lường gạt lừa đảo người khác để thủ lợi về mình dưới mọi hình thức, mà người bị mình lừa gạt bị thiệt hại mà họ không biết, hay có biết ra cũng đã muộn rồi. Có một định nghĩa chung cho việc vọng ngữ là: không biết nói biết, biết nói không biết; không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; không hay nói hay, hay nói không hay; không nghe nói nghe, nghe nói không nghe. Và trong vọng ngữ còn gồm có cả nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói thiêu dệt không đúng nghĩa, tuy không thuộc tội bất khả hối, nhưng chúng cũng thuộc gây ra bất hoà xáo trộn trong cuộc sống, đem đến khổ đau cho nhau trong hiện tại, nên chúng thuộc vào tội khả hối.

- Lời nói hư dối cũng như định nghĩa trên, nhưng trong Phật giáo chia ra làm ba loại: Đại vọng ngữ , tiểu vọng ngữ, và phương tiện vọng ngữ. Đại vọng ngữ là lời những nói hư dối không thật trên thực tế, như hiện tại mình chưa chứng Thánh mà nói với mọi người là mình đã chứng Thánh v. v…; tiểu vọng ngữ là ngoại trừ những lời đại vọng ngữ ra, còn những lời nói không thật dùng để dối gạt mọi người, nói chung tất cả mọi sự nói dối đều là tiểu vọng ngữ; phương tiện vọng ngữ là những lời nói nhằm vì cứu độ chúng sanh, Bồ-tát xuất gia tại gia có thể phương tiện vọng ngữ như: Có kẻ say muốn giết người đến hỏi có thấy người kia không, nếu có thật thấy người kia đi nữa, nhưng vì muốn cứu người kia nên nói không thấy thì không có tội.

- Riêng đại vọng ngữ ở đây phải hội đủ chín điều kiện , mới thành tội trọng bất khả hối, và cũng vì bất khả hối cho nên sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi:

1/ Nói với người.

2/ Tưởng là người.

3/ Không thực có chứng.

4/ Tự biết không thực có chứng.

5/ Có tâm dối gạt.

6/ Nói ra pháp thượng nhơn.

7/ Tự nói mình chứng pháp ấy.

8/ Nói rõ ràng.

9/ Nói người đối diện hiểu.

- Đó là chín điều kiện đủ để hoàn thành tội danh trong giới nói lời hư dối này, nếu không hội đủ chín điều kiện này thì chưa đủ cơ sở để kết án là mắc tội bất khả hối, và như vậy chúng thuộc về tội khả hối. Ở đây, đối với giới đại vọng ngữ này mới nghe ra trên mặt biểu tượng ngôn ngữ chúng có vẻ vô thưởng vô phạt, không có hại cho ai cả, nếu có hại đi chăng nữa thì cũng do đối tượng tự nguyện. Còn đối với người nói, nếu ai đó phát hiện ra được thì họ bị thiên hạ coi như là một kẻ ngông cuồng tự cao tự đại thế thôi. Nhưng nếu chúng ta nhìn sâu và kỹ một tí nữa, thì vấn đề này chúng không đơn giản như chúng ta nghĩ, mà chúng là nhân đưa đến ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì sao? Vì theo những lời Phật dạy trong luật Tứ phần thì đây là một trong hai loại giặc , lớn nhất không gì bằng. Vì chúng ăn trộm đồ ăn thức uống của người. Ở đây tuy đức Phật dạy cho các Tỳ-kheo xuất gia, nhưng giới này thuộc Tánh giới dành cho cả xuất gia và tại gia, nên những người nam nữ tại gia cũng không được phạm vào, nếu ai đã thọ trì năm pháp. Tại sao phạm đại vọng ngữ mà ở đây đức Phật gọi là giặc trộm? Vì như chúng ta biết, khi chúng ta mở miệng ra để nói những điều đó thì đương nhiên người nói luôn có mục đích, ngoại trừ những kẻ điên cuồng loạn tâm, thì hầu hết người nói ra việc đó đều muốn mang về cho mình một mối lợi lớn từ người nghe, có tín tâm đối với tam bảo. Đây là một cách lừa đảo có hiệu quả nhất, mà chính người nghe khó đủ trình độ trí tuệ để phát hiện, vì chúng đem bậc Thánh ra để đánh động lòng tin của người nghe, và như vậy là chính họ đã lừa đảo chính họ mà họ không biết. Đây quả thật là một việc làm buôn thần bán thánh để nuôi dưỡng cái ngã vô minh.

- Thật ra trong giới đại vọng ngữ này, chỉ ngoại trừ những ai vô liêm sỉ, không hiểu biết nhân quả mới phạm vào đại vọng ngữa, chứ thông thường thì chúng ta dễ mắt phải tiểu vọng ngữ trong cuộc sống. Do đó chúng ta là những người nam nữ Phật tử tại gia đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp này thì dứt khoát phải lánh xa chúng. Cho dù việc nói dối đó mang lợi lại cho chính chúng ta hay người khác đi nữa, thì việc làm đó cũng mang một hậu ý xấu là lừa đảo lường gạt kẻ khác, chúng mang cái hại đến cho họ, thì chúng ta không nên làm. Vì như trên chúng tôi đã nói, một việc làm của chúng ta, nó tác động hổ tương liên quan tới người vật khác chung quanh, gần cũng như xa qua liên hệ trực tiếp và gián tiếp.

- Sự tác hại liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như ba giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa lời nói hư dối thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ tư trong năm học xứ trên.

5. Uống các loại rượu hay xa lánh uống các loại rượu:

- Đây là pháp thứ năm, còn gọi là pháp uống các loại rượi nơi phóng dật hay tránh xa uống các loại rượư nơi phóng dật. Ở đây, Bản thân của rượu vốn không tội ác, vì vậy giới uống rượu trong năm giới nó thuộc về Giá giới. Nhưng vì sau khi uống rượu vào, tất cả chúng ta không ai có thể làm chủ được chính mình, nên có khả năng tạo thành tội ác lớn. Do đó đức Phật căn cứ vào những hiện tượng và những hậu quả đã xảy ra do chất men rượu làm cho hệ thống thần kinh hưng phấn, mật to xung động, làm mờ mắt, không còn tự mình khống chế lấy mình được, có thể mắng người, đánh người, giết người, hiếp dâm, phóng hoả, làm mất anh ninh trật tự chòm xóm láng giềng và, bất cứ hành động nào cũng có thể làm được hết, mà Ngài đã chế giới uống rượu.

- Cũng như bốn giới trên, giới uống các loại rượu cũng phải hội đủ ba điều kiện sau đây mới thành tội khả hối:

1/ Là rượu.

2/ Không vì bệnh nặng.

3/ Uống vào khỏi cổ.

- Đó là ba điều kiện đủ để hoàn thành tội danh của giới uống các loại rượu khả hối này. Cho dù tội này không phải là Tánh tội bất khả hối mà là giá tội khả hối, nhưng vì tính liên đới sau khi hoàn thành tội danh thì theo sau đó những tội khác xuất hiện như cướp của, giết người, cưỡng dâm, và tất cả những tội khác có thể xảy ra, mà bản thân người đó không tự chủ được. Do đó việc tạo ra oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi. Dưới đây, chúng tôi sẽ trích dẫn hai mẫu chuyện về việc uống rượu say, và đưa đến việc phạm những trọng tội khác:

- “Vào thời kỳ đức Phật Ca-diếp-ba xa xưa, có một người thọ trì năm pháp, luôn luôn giữ giới thanh tịnh. Một hôm, từ bên ngoài trở về nhà, vì quá khát nước, nên thấy trên bàn có một chén rượu màu trong như nước, vội vàng uống một hơi vào bụng. Nào ngờ sau đó rượu ngấm, tính men rượu kích thích phát tác, khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà hàng xóm chạy vào nhà, ông ta bèn bắt trộm làm thịt, vợ người hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau việc này, bị bắt đến công đường, ông ta chối cãi không nhận tội. Chỉ vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta liên tục phạm đủ năm pháp cấm giới. Tội ác của rượu rất lớn như vậy.”

- “Vào thời đức Phật còn tại thế, có Tôn giả Sa-già-đà , thần lực của ngài có thể hàng phục được độc long. Sau khi khất thực ngài uống rượu do Phạm chí cúng dường. Uống xong ngài đi về bị say ói mửa, té ngã dọc đường. Đức Phật nói với A-nan: ‘Sa-già-đà này là người si, trước kia có thể hàng phục được độc long lớn, bây giờ, thì không thể hàng phục được con rồng nhỏ!’”

- Qua hai mẫu chuyện này cho chúng ta thấy, cái hại của việc uống rượu là như thế nào rồi. Chúng làm mờ đi trí não của con người, không còn biết gì nữa một khi đã say, và cũng vì cái nhân gây ra tai hại đáng sợ ngay trong hiện tại, và trong tương lai sau khi chết sẽ đoạ vào ba đường ác. Theo Tứ phần luật thì người uống rượu có mười điều mất mát:

1- Nhan sắc xấu xí.

2- Kém sức khỏe.

3- Con mắt không sáng.

4- Hiện tướng hung dữ.

5- Phá hỏng sự sống của gia nghiệp.

6- Đưa đến bệnh hoạn.

7- Thích đấu tranh kiện tụng.

8- Không ai khen, tiếng xấu truyền khắp.

9- Trí tuệ giảm thiểu.

10- Thân hoại mạng chung đọa vào ba đường ác.

- Đó là mười điều mất mát của chúng ta khi uống rượu say ngay trong hiện tại. Đó là cái hậu quả không thể tránh được của người uống rượu: nhân cách không còn, trí tuệ biến mất, tác hại đến sức khẻo, tạo ra các thứ tội mà đáng ra nếu chúng ta không uống rượu vào thì sẽ không xảy ra! Từ đây tác động hỗ tương kéo rộng ra chung quanh mà gần nhất là những người thân trong gia đình và rộng hơn là xã hội.

- Cũng giống như bốn giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa uống các loại rượu thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ năm trong năm học xứ trên.

Tóm lại, qua năm pháp trên: Thứ nhất cho chúng ta một cái nhìn về nhân quả, theo đó nếu người thiện nam kẻ tín nữ nào phạm vào, có nghĩa là chúng ta giết hại sinh mạng con người cho đến uống các thứ rượu, thì hiện tại sẽ bị khổ đau vì tù tội, và oán đối trả vay theo sau, khiến cuộc sống trở nên bất an, xã hội trở thành bất ổn, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạ vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh oán đối theo mãi. Còn nếu lánh xa giết hại sinh mạng người cho đến xa lìa uống các thứ rượu, thì chắc chắn hiện tại sẽ hạnh phúc tự do, cuộc sống trở nên an lạc, xã hội trở thành cực lạc, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi trời. Đó là một thứ nhân quả tất yếu không thể không xảy ra. Thứ hai ngoài giới thứ nhất sát hại sinh mạng ra, bốn giới sau giới nào cũng có khả năng sau khi hoàn thành việc vi phạm chính giới có thể đưa đến giết người, và những tội danh nặng nhẹ khác nhau có sau đó. Thứ ba trong năm giới, giới nào khi hoàn thành nghiệp nhân của nó cũng bắt đầu từ tâm ý tham lam, sân hận, ngu si phát động, và kéo theo đó thân và khẩu hành động theo, và tuỳ thuộc vào kết quả đã thực hiện xong, tội danh bắt dầu hiện hữu, sau đó sẽ bắt đầu nhận lãnh nghiệp quả ngay trong hiện tại, hay trong tương lai, thì chúng còn tuỳ thuộc vào duyên đủ hay chưa đủ của chúng. Thứ tư từ những hiện tượng duyên đủ trên đủ để phát động những liên hệ duyên khởi tiếp sau đó, và cứ như thế trái đất vẫn quay, mặt trời vẫn chiếu sáng, các hành tinh vẫn hoạt động bình thường, theo sự sinh diệt phải có của chính chúng. Con người cũng không vượt khỏi qui luật này, và như vậy họ cũng phải sinh diệt theo qui luật thành, trụ, hoại, không, trong chu trình biến dịch sinh tử. Trong chu trình biến dịch sinh tử này, chúng luôn mang theo những chất liệu đủ đề hoàn thành biến dịch của sinh và tử, đó chính là những nghiệp nhân của nghiệp quả trước đó hình thành những chuỗi liên hệ khác trong chính nó, và như vậy khổ đau hay hạnh phúc cũng tuỳ thuộc vào những chất liệu nghiệp nhân mà chúng ta đã tạo ra trong quan hệ y báo và chánh báo.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post




Pháp Lục hoà là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nên tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn trong hoà hợp hoà kinh hạnh phúc và an lạc. Vì sáu pháp hoà kính này có năng lực hoá giải tất cả mọi xung giữa cá nhân và cá nhân, cộng động tập thể này và cộng đồng tập thể khác trong cuộc sống chung đụng với nhau từ vật chất đến tinh thần, nếu mất hoà khí, bất hoà với nhau thì cuộc sống của mọi người trở nên địa ngục. Sự bất hoà là đầu mối đưa đến xung đột đổ vỡ trong cuộc sống, là ung nhọt độc cần phải được giải phẩu cắt bỏ đi, nếu không muốn đưa đến chỗ đổ vỗ chia lìa tan rã. Trong một tập thể cộng đồng Tăng lữ nếu muốn duy trì cuộc sống vô sự thì trước hết phải vô hiệu hoá bản ngã cá nhân qua việc tự kính trọng mình và kính trọng mọi người chung quanh và, phát triển lòng từ đối với chính mình cùng mọi người. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nên an lạc và hạnh phúc được. Đó là chúng tôi đề cập đến ý nghĩa pháp Lục Hoà đối các hàng Thinh Văn cầu Bồ-đề, khi tu tập cần phải ái kính lẫn nhau, chứ chưa đề cập đến Lục hoà theo ý nghĩa của Đại thừa dành riêng cho các hàng Bồ-tát đối với chúng sanh trong việc lợi tha không điều kiện. Sáu pháp hoà kính này tuy các kinh luân nhiều nơi dùng từ khác nhau hay vị trí sắp xếp cũng không giống nhau; nhưng trong ý nghĩa thì đồng. Ở đây chúng tôi xin đưa ra sáu pháp Lục Hoà thông thường đối với mọi người đã từng đọc qua, đã từng học rồi cho chúng ta dễ tiếp nhận hơn theo Tổ Đình Sự Uyển thì sáu pháp Lục Hoà là:

1. Thân hoà cộng trụ, là trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.

2. Khẩu hoà vô tránh, đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.

3. Ý hoà đồng sự, là đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận.

4. Giới hoà đồng tu, là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra.

5. Kiến hoà đồng giải, là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.

6. Lợi hoà đồng quân, là tất cả mọi thứ của cải vật chất có được từ sự hỷ cúng của các thí chủ, được chia đều cùng nhau một cách bình đẳng một cách hợp pháp, có nghĩa là bình đẳng trong đồng đẳng.

Đó là sáu pháp hoà kính thông dụng mà chúng ta thường nghe thấy hay thọ trì, nhưng nếu chúng ta cũng qua sáu pháp hoà kính này mà theo các văn bản của các kinh luận khác thì chúng ta thấy có sự sai khác về cách dụng ngữ cũng như cách sắp thứ tự của sáu pháp trong mỗi bản văn mỗi khác nhau, có lẽ đây là do sự san định sau này trong những kỳ kiết tập kinh điển qua các bộ phái phát triển sau này để cho phù hợp với quan điểm của họ mà thôi. Rất mừng là tuy khác nhau trên mặt hình thức và vị trí sắp xếp, nhưng trong các văn bản khác nhau này về nội dung thì không thay đổi; nếu chúng có thay đổi đi chăng nữa thì nội dung đó cũng chỉ khác nhau tuỳ thuộc vào các thuộc tính hành trình theo từng căn cơ của hành giả mà thôi.

Vì vậy cho nên ở đây chúng tôi sẽ trình bày một số ít văn bản trong nhiều văn bản đại diện cho các trào lưu phát triển từ nguyên thỉ cho đền các bộ phái sau nay và, trong hiện tại chỉ còn đại diện hai bộ phái duy nhất là Tiểu thừa và Đại thừa qua kinh luận sau đây.

Sáu pháp hoà kính đầu tiên được đức Đạo sư nói ra qua tiêu đề là Lục trọng pháp trong kinh Trung A-hàm 22, được đức Đạo sư đem ra day cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na nhân hai người đến để trình lên chỗ thấy nghe của Sa-di Châu-na về trường hợp Thầy trò Ni-kiền Thân Tử, sau khi ông ta mất đi và những cảnh tượng đau lòng giữa các đệ tử của ông xảy ra. Sự phân hoá phát xuất từ những bản ngã cá nhân được bừng nổ từ sự ần nhẫn dưới sự bao trùm khép kin của sư phụ họ, những bản ngã cá thể được bùng vỡ ra từ những ức chế tâm lý đã từng được họ cưu mang thể hiện qua những hành động chống báng nhau, không ai nghe ai! Ai cũng cho mình là nhất, sự ái kính lẫn nhau không còn nữa. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng, “Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói tề chỉnh, còn ngươi không tề chỉnh. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta hơn, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni-kiền Thân Tử, thấy những cảnh tượng như vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử này. Vì những điều các đệ tử của Thầy họ nói ra đều là ác pháp luật, không phải là pháp giải thoát, không đưa đến Chánh giác, cũng không phải là lời dạy của Đấng Thiện Thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc Thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ Sa-di Châu-na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá-di, rồi qua phía bắc thôn Xá-di, đến rừng Thi-nhiếp-hòa. Sa-di Châu-na đến chỗ Tôn giả A-nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi ngồi qua một bên đem việc này trình lên Đức Đạo sư.

Đức Đạo sư nhân cơ hội này dạy cho các học trò của Người về bảy phương pháp đình chỉ mọi sự tranh cãi và pháp lục hoà, là vì Ngài muốn học trò của Ngài luôn luôn phải sống trong vô sự thể hiện qua sự ái kinh lẫn nhau trong cuộc sống nên Ngài đã nhân việc mất hoà khí giữa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử chia rẽ và phá hoại nhau sau khi ông qua đời. Đức Đạo dạy về sáu pháp hoà kính như trong kinh Trung A-hàm 52, kinh 196 Châu-na (T1n26, tr. 755b21) như sau:

“Này A-nan! Nay ta nói cho ngươi sáu pháp ủy lao, hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ.”

Tôn giả A Nan bạch rằng:

“Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe.”

Phật nói:

“Thế nào là sáu? Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, cũng vậy.

“Có lợi lộc nào đúng pháp mà nhận được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh, pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được Thánh khen ngợi, đầy đủ khéo thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Nếu có kiến giải của Thánh có sự xuất yếu, được thông suốt bằng tuệ kiến, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Này A-nan, Ta vừa nói sáu pháp ủy lao, vì vậy mà Ta giảng giải. Này A-nan, nếu các ngươi đối với sáu gốc rễ của tránh sự mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp đình chỉ tránh sự, khi trong Tăng chúng khởi lên tránh sự, thì chấm dứt bằng luật đình chỉ tránh sự như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lao ấy, thì này A-nan, như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, sống an lạc như lúc Ta còn tại thế.”

Qua đoạn kinh mà đức Đạo sư đã dạy cho Tôn giả A-nan, về mặt hình thức dụng ngữ có những sai hác và, cách sắp xếp vị trí cũng không có sự đồng bộ nhất trí như Sáu pháp hoà kính trong Tổ Đình Sự Uyển, nhưng về mặt nội dung ý nghĩa thì không khác. Tuy những dụng ngữ trong mỗi văn bản có sự khác nhau, nhưng cuối cùng cũng đưa đến sự hoà kinh tôn trọng lẫn nhau trong một nếp sống tập thể không thiếu lòng từ cho việc lợi tha về mọi mặt trong cuộc sống: Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho mọi người tương thân với nhau, khiến cho mọi người tương kính với nhau, khiến cho mọi người cùng tương trợ với nhau qua cuộc sống, khiến cho mọi sự tu tập tinh tấn hơn, khiến cho cuộc sống nội bộ cùng chung một tập có sự đoàn kết thân ái hơn, cũng là nhân đưa đến sự tác thành cuộc sống Phạm hạnh của một Sa-môn, đưa đến nhất tâm và tinh cần thật sự cho việc hành giả chứng đắc Niết-bàn. Qua sáu pháp hoà kinh mỗi một pháp chúng tự có giá trị cho tự thân chúng tuỳ theo từng thuộc tính một, nếu hành giả theo đó mà thực hành đúng nhu lời đức Đạo sư đã dạy thì việc chứng đắc Niết-bàn trước sau gì cũng sẽ đạt được.

Hay cũng theo Kinh Tăng Nhất A-hàm 29 (Đ. 2, Tăng Nhất A-hàm 29, Lục trọng pháp,tr. 0708c) thì đức Đạo sư dạy cho cá Tỳ-kheo: “Các ngươi hãy suy niệm sáu trọng pháp, kính trọng, tôn trọng, và ghi nhớ mãi ở trong tâm không cho quên mất. Sao gọi là sáu? Ở đây, Tỳ-kheo thân hành niệm từ, như soi gương thấy hình mình, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

“Lại nữa, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

“Lại nữa, được các thứ lợi lộc đúng pháp thì nên chia cho các phạm hạnh cùng hưởng, không tưởng tiếc rẻ; pháp này đáng kính, đáng quí, không để quên mất.

“Lại nữa, có các giới cấm không hủ, không bại, cực kỳ hoàn hảo, không sứt, không thủng, được bậc trí quí trọng, lại muốn đem giới này được phân bố cho người khác cũng đồng một vị; pháp này đáng kính, đáng quí không để quên mất.

“Lại nữa, chánh kiến của Hiền Thánh dẫn đến xuất yếu; có kiến giải như vậy, và muốn các vị phạm hạnh đồng tu cùng đồng pháp này, cũng đáng kính, đáng quí, không để quên mất.

“Này Tỳ-kheo, đó gọi là có sáu trọng pháp này, đáng kính, đáng quí, không để quên mất. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường xuyên tu tập các hành vi của thân, miệng, ý; nếu được các thứ lợi dưỡng, cũng nên nghĩ phân đều cho nhau, chớ khởi tưởng tham.” Kinh này tương đồng với Tăng Chi Bộ kinh của Pāli qua sáu pháp Ủy lạo Pāli, (M 104 Sāmagāmasutta (R. iii. 250): cha sārāṇīya-dhammā.)

Giữa hai bản kinh Trung A-hàm và Tăng Nhất A-hàm về vị trí theo thứ tự có sự thấng nhất, tuy những dụng ngữ không giống nhau, nhưng về nội dung thì không khác. Sự khác nhau trong dụng ngữ để khế hợp với từng căn cơ chủng loại loại của trình độ người nghe mà đức Đạo sư phương tiện giảng thuyết. Theo kinh Trung A-hàm thì trước khi Ngài dạy cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na về Sáu pháp hòa kinh thì, ngải đã nhân việc khởi lên tranh cãi nhau, bất hòa nhau trong cuộc sống tập thể của các đệ tử ngoại đạo Ni-kiền Thân Tử về bảy phương pháp để đưa đến việc chấm dứt mọi việc tranh cãi bất hòa nhau trong cuộc sống, đó chí là Bảy pháp diệt tránh và, sau đó mới dạy về Sáu pháp hòa kính. Qua thời gian của hai bản kinh được đức Đạo sư nói ra là khác nhau, nhưng nội dung ý nghĩa thì đồng nhau trên cương vị đưa hành giả đến chỗ thanh tịnh hóa ba nghiệp thân-khẩu-ý. Đây chính là một phương pháp vừa tự độ và cũng vừa độ tha trong một cộng đồng sống chung tập thể với nhau, qua việc tự hoàn thiện cá nhân mình trong việc thanh tịnh hóa ba nghiệp của mỗi người và qua đó cảm hóa được nhau qua sự giúp đỡ lẫn nhau trong việc tấn tu đạo nghiệp cũng qua ba nghiệp, nhưng lệ thuộc vào những hoàn cảnh sống chung quanh với bản thân cá nhân của mỗi một cá thể được cụ thể hóa qua việc hòa đồng cùng đem lại lợi ích cho nhau về vật chất cũng như tinh thần qua giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và lợi hòa đồng quân. Đó chính là những yếu tố cần thiết trong một tập thể sống nếu muốn trở nên an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại.

Theo A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15 gọi Sáu pháp hòa kinh này là Sáu pháp khả hỷ và được Tôn giả Xá-lợi-phất trình bày như sau: “Sao gọi là sáu? là nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng Phạm hạnh, khởi nghiệp thân từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ nhất. Do pháp này nên có thể phát ra đáng yêu (khả ái), có thể phát ra sự tôn trọng, có thể phát ra vừa ý (khả ý), và cũng có khả năng dẫn đạo khả ái, tôn trọng, khả ý, vui ý, nhiếp thọ mọi hoan hỷ không trái không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng phạm hạnh, khởi nghiệp khẩu từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ hai. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng phạm hạnh, khởi nghiệp ý từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ ba. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nhờ pháp thu hoạch được những lợi dưỡng như pháp, thì những thức ăn có được từ những bát thấp nhất cho đến những bát trung; những lợi dưỡng này cùng những người trí đồng phạm hạnh cùng nhau thọ dụng không được phân ra cất dấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ tư. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đã thọ trì giới có được, không khuyết, không rỉ, không tạp, không nhơ, ứng cúng không chấp thiện, cứu cánh thiện, nhận lấy những lời xưng tán không hùy báng những người trí, đối với những giới như vậy cùng người trí đồng phạm hạnh, cùng nhau thọ trì không gì che dấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ năm. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, có Tỳ-kheo nào, những sở kiến có được, về đạo xuất ly của các bậc thánh mà khéo thông đạt; hoặc khởi công thực hành chúng có thể đạt đến chỗ hết khỏ. Đối với những sở kiến như vậy cùng với các bậc trí đồng phạm hạnh, cùng nhau tu tập không che dấu những sở kiến của mình thì, đó gọi là pháp khả hỷ thứ sáu. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, có thể phát khởi tôn trọng, có thể pháp khởi khả ý và, có khả năng dẫn đạo khả ái, tôn trọng, khả ý cùng nhiếp thọp mọi hoan hỷ không trái không ngăn hành giả đi về một hướng.” Qua lời trình bày của Tôn giả Xá-lợi-phất trong A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15; đây là những gì chính Tôn giả đã từng nghe đức Đạo sư dạy và được Ngài trình bày lại nơi đây, về ý nghĩa không khác với Sáu pháp hòa kính do Đức Đạo sư dạy, tuy trên mặt dụng ngữ là có khác về cách sử dụng từ, nhưng về nội dung thì giống nhau về việc tu tập ba nghiệp để trở nên thanh tịnh từ vật chất đến tinh thần được kết hợp một cách nhuần nhuyễn trong việc thể hiện qua cuộc sống tập thể Tăng đoàn, tạo nên an lạc hạnh phúc trong đoàn kết thân thương hòa hợp đưa đến nếp sống vô sự an lạc trong giải thoát cuối cùng. Đó là những văn bản chúng tôi trích ra từ kinh điển đại diện cho quan điểm của Tiểu thừa về sáu pháp hòa kính cho thấy có sự đồng nhất trên theo thứ tự của Sáu pháp này vê 2 hình thứ kể cả nội dung, tuy có việc sai khác trong cách dụng ngữ của mỗi bản văn.; nhưng điều này không ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng. Dưới dây chúng tôi sẽ đưa ra Sáu pháp hòa kính theo kinh điển của các nhà Đại thừa trong nội dung tư tưởng và về cả cách thức sắp xếp cùng cách sử dụng dụng ngữ nữa.

Theo Đại Thừa Nghĩa Chương 12 thì ý nghĩa của Lục hòa kính đồng đưa đến an lạc, không tạo nên phiền não, khởi lên tạo tác không trái với an lạc nên gọi là hòa; vì lúc hành giả thực hành hòa hợp đoàn kết trong cuộc sống luôn luôn cần sự hiện hữu tác động của tình cảm lên nếp sinh hoạt của chúng ta mới mong mang lại tình thân quý trọng lẫn nhau. Sự bền vững của hòa hợp luôn phải được thể hiện nơi lòng chí kính, nếu trong giao thiệp mà không có sự tôn trọng chí kính lẫn nhau thì sự kết hợp đó sẽ đưa đến sự tan vỡ. Cho nên sự thành công để đưa đên an lạc phải có hòa và kính đi đội với nhau. Vì vậy cho nên được gọi là Sáu pháp hòa kính. Theo Đại thừ Nghĩa chương thì: Một. Thân nghiệp đồng, có hai: một cùng xa lìa tội lỗi, có nghĩa là hành giả tu tập đồng xa lìa sát, đạo, tà dâm, …, hai đồng tạo việc thiện, nghĩa là thực hành tất cả những việc có liên quan đế thiện nghiệp, như lễ bái … Hai, khẩu nghiệp đồng, cũng có hai: một cùng đồng xa lìa tội lỗi, có nghĩa là tất cả đều xa lìa nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt. Hai, cùng đồng làm việc thiện, nghĩa là cùng làm mọi công việc thiện như tán tụng, khuyến thiện … Ba ý nghiệp đồng, cũng có hai loại: Một, cùng đồng lìa tội lỗi, có nghĩa là cùng nhau lìa khỏi tất cả mọi ý nghĩ về nghiệp phiền não ngay trong ý nghĩ. Hai cùng nhau tạo việc thiện qua ý nghĩ, cùng nhau tu tín, tấn, niệm, định, tuệ tất cả mọi pháp thiện. Bốn, đồng giới, cũng có hai: Một, cùng đồng người thô giới như ngũ giới, bát giới, mười giới … Hai, cùng đồng trì giới mà mình đã thọ. Ở đây phân ra làm ba loại giới: Một nhiếp luật nghi gới, hai, Nhiếp thiện pháp giới, ba, Nhiếp chúng sanh giới. Năm, Đồng bố thí, cũng có hai: Một, nội thí hòa đồng gồm những vât nhà mình, tự thân dùng để phụng cấp cho việc tôn kính. Hai, ngoại thí hòa đồng, những tư cụ có được ngoài nhà ra. thí này cũng được phân ra là ba loại: Một, Tài thí hòa đồng, hai, pháp thí hòa đồng, ba, vô úy thí hòa đồng. Sáu, Đồng kiến, là chỉ co kiến giải có được, củng có hai loại: một, trong thế đế kiến giải đồng nhất không khác. hai, trong chân đến có kiến giải đồng nhất không khác. sựa sai khác ở đây chỉ có trên măt sắp xếp theo thứ tự thì có khác với ba pháp hòa kính sau và, trên cách dụng ngữ cũng có khác đối với kinh điển Tiểu thừa; tuy nhiên về nội dung ý nghĩa thì không khác, chỉ giải thích sâu rộng thêm về mặt ý nghĩa thôi.

Riêng theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn phần cuối của quyển hạ thì về mặt hình thức ba pháp dưới đổi lên trên và ba pháp trên đổi xuống dưới và, trong các sử dụng dụng ngữ cũng theo đó mà có sự sai khác; nhưng trên mặt ý nghĩa thì đồng nhau. Ở đây chỉ có pháp thứ ba Đồng hành hòa kính, không những khác nhau về dụng ngữ mà còn khác nhau về hiện tượng. Trong các bản kinh văn khác đều lấy quả để nêu lên ý nghĩa của háp hòa kính này, nhưng ở đây lấy nhận đê làm tiền đề cho pháp này. tuy nhiên nếu đi sâu vào hơn nữa thì giữa nhân và quả không khác nhau trên nghĩa cứu cánh, do đó chúng cũng không ảnh hưởng cho lắm trong việc tu tập cho hành giả nếu chúng ta thực hành đúng đường. Theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn thì Sáu pháp hòa kính này theo thứ tự như sau:

Một, Đồng giới hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp biết rằng tội bất khả đắc, vì muốn an vị chúng sanh đối với lý thật tướng nên dùng Giới làm phương tiện thiện xảo đồng với tất cả qua việc thọ trì các giới phẩm mà mình đã thọ, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả chúng sanh cùng đồng giới thiện này, không đoạn không thường, đời vị lai ắt được quả lớn Bồ-đề, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng giới là hòa kính.

Hai, Đồng kiến hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp, đối các pháp không được không biết không thấy, vì muốn an vị chúng sanh, đối với các pháp chánh kiến làm phương tiện thiện xảo hòa đồng với tất cả. Mọi thứ tri kiến không trái nghịch và, cũng nên biết rằng chúng sanh nhân tri kiến nầy mà phân biệt được chánh kiến tà kiến; tăng tiến giải mở, tất được chủng trí viên minh. vì kinh tri kiến như Phật, cho nên nói đồng kiến là hòa kính.

Ba, Đồng hành hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp, vô niệm vô hành, vì muốn an vị chúng sanh đối với thật tướng chánh hành nên dùng hành làm phương tiện thiện xảo đồng với tất cả qua việc tu tập các loại hành, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả chúng sanh cùng đồng các hành này, không có trái nghịch, cũng nên biết rằng chúng sanh đồng các hành này, dần dần tích tụ công đức, tất cả sẽ thành phật đạo, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng hành là hòa kính.

Bốn, Thân từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào vô duyên đại từ bình đẳng, nhờ tu thân mình, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, hiện các oai nghi, cùng vui với tất cả, cho nên thân cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, đời vị lai ắt được thân kim cương. vì kinh thân như Phật, cho nên nói thân từ là hòa kính.

Năm, Khẩu từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào vô duyên đại từ bình đẳng, nhờ tu khẩu mình, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, phát ra khắp tất cả mọi thứ âm thinh ngôn ngữ, cùng vui với tất cả, cho nên miệng cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, đời vị lai ắt được khẩu nghiệp vô thượng. vì kính khẩu như Phật, cho nên nói khẩu từ là hòa kính.

Sáu, Ý từ hòa kính, Bồ-tát tâm thường trụ vào vô duyên từ tam-muội, nhờ tu tập ý, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, hiện các tâm ý, cùng vui với chúng sanh, cho nên ý cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, ý tàng Như Lai, đời vị lai ắt được tâm như tâm Phật, vì kính ý như Phật cho nên nói ý từ là hòa kính. Qua Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn ngoài thứ tự Sáu pháp hòa kính ra, đặc biệt Sáu pháp này dành cho các hàng Bồ-tát khi hành Bồ-tát hạnh của mình lấy Sáu pháp này với mục đích là để an vi chúng sanh, tức là sáu pháp này thể hiện nơi chính bản thân các Ngài để làm gương cho mọi người tin theo qua thân giáo cùng chính cuộc sống của quý Ngài qua hòa kính trong cùng một cộng đồng vô duyên từ là yếu tố quan trong đưa đến thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý và, khiến mọi chúng sanh cũng đồng tội bất khả đắc, các pháp không được, không biết, không thấy, vô niệm, vô hành. Đây chính là pháp môn bất nhị của Sáu pháp hòa kinh dành cho các hàng Bồ-tát. Do vì thuộc tính của đối tượng nên sáu pháp hòa kính theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn ý nghĩa chúng sâu xa và vi diệu hơn nhiều so với Sáu pháp hòa kính danh cho các hang tại gia và Tiểu thừa; nhưng ý nghĩa sáu phap hòa kinh cứu cánh của chúng vẫn đưa hành giả đến an vui giải thoát.

Tóm lại, về ý nghĩa của pháp Lục hòa như phần đầu chúng tôi đã trình bày và, theo đó chúng tôi đưa ra những bản kinh văn thuộc hai hệ Tiểu và Đại Thừa để chúng ta thấy rõ được những chỗ đồng dị của chúng; nhưng đó chỉ là những đồng dị tùy thuộc vào thuộc tính của từng căn cơ các loải hữu tình mà đức Đạo sư đã phương tiện dạy cho chúng ta về cả hai phương diện khế cơ và khế lý, nên dù có những khác nhau trong dụng ngữ hay kết hợp theo thứ lớp không đồng bộ thì việc này cũng nằm trong việc tùy duyên của Ngài lúc ra hóa đạo mà thôi. Mục đích là giảng dạy cho các hàng đệ tử của Ngài trong nếp sống cộng đồng, sống thế nào để đem lại an vui phúc phúc và những điều kiện cần phải nổ lực thực hành những pháp ấy cùng, sống thế nào để đưa đến oán đối tan rã, đưa đến đau khổ lẫn nhau. Một tập thể Tăng lữ nếu muốn duy trì cuộc sống vô sự trong một cộng đồng thì trước hết phải vô hiệu hoá bản ngã cá nhân của mỗi người qua việc tự kính trọng mình và kính trọng mọi người chung quanh và, phát triển lòng từ đối với chính mình cùng mọi người. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nên an lạc và hạnh phúc được. Qua đó Pháp Lục hòa được đức Đạo sư chỉ dạy cặn kẽ cho các đệ tử của Ngài, từ tại gia cũng như xuất gia qua việc thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý là chính của mỗi cá nhân và những giải quyết mọi ràng buộc trong sinh hoat hằng ngày trong từng tập thể qua việc thể hiện lòng từ là chính trong việc hướng dẫn dìu dắt nhau nhau tiến về đạo giải thoát.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

Video-Phim

About Me

Ảnh của tôi
Vietnam
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.