Khổ đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện tượng. Do đó vấn đề Nhân quả ở mặt nào đó, chúng được coi như là nhân tố quyết định cho mọi giá trị đánh giá về cuộc sống, mà đức Đạo sư khi còn tại thế thường dạy cho đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài, theo đó cuộc sống được thể hiện qua khổ đau hay hạnh phúc đều do hành động của chính chúng ta mang lại ngay trong hiện tại hay trong tương lai. Cũng vì vậy cho nên Tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên, khi còn ở đời Ngài đã lấy những lời dạy về năm pháp này của đức Phật để triển khai rộng ra trong A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận . Theo đó năm pháp này được Tôn giả liên hệ duyên khởi với ba độc tham, sân, si qua sự thể hiện nhân quả của ba nghiệp thân, khẩu, và ý, trong việc tự mình đem lại đau khổ cho chính mình, nếu phạm vào năm pháp này, và khuyên người khác phạm vào năm pháp này. Ngược lại tự mình muốn đem lại hạnh phúc cho chính mình thì bằng cách xa lìa năm pháp này, và khuyên kẻ khác cũng xa lìa năm pháp này nếu họ muốn có hạnh phúc. Theo Tôn giả, thì đức Phật đã dạy năm pháp này như sau:

- “Khi đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, trong rừng Thệ-đa , tại Thất-la-phiệt , thì bấy giờ Thế Tôn bảo các Bí-sô:

- “Nếu những ai chưa dứt bặt hết được năm điều tội oán đáng sợ này, thì đối với đời sống hiện tại họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được gọi là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê cười, phát sinh nhiều điều phi phước; khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào đường hiểm ác, sinh vào trong địa ngục.

“Những gì là năm? Đó là:

- “Sát sinh; do nhân duyên sát sinh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa sát sinh, đó gọi là (tội oán) thứ nhất.

- “Lấy của không được cho; do nhân duyên trộm cắp nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa trộm cắp, đó gọi là (tội oán) thứ hai.

- “Dục tà hạnh; do nhân duyên tà hạnh nên sanh ra tội oán sợ hãi. Không tránh xa tà hạnh, đó gọi là (tội oán) thứ ba.

- “Lời nói hư dối, do nhân duyên lời nói hư dối nên sanh ra tội oán sợ hãi; không tránh xa lời nói hư dối, đó gọi là (tội oán) thứ bốn.

- “Uống nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật; do nhân duyên uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật nên sanh ra tội oán sợ hãi; không tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là (tội oán) thứ năm.

- “Ai chưa dứt hết được năm điều tội oán đáng sợ hãi như vậy, thì đối với đời sống hiện tại, họ sẽ bị các vị Hiền thánh cùng quở trách, chán ghét; được gọi là những kẻ phạm giới, tự làm tổn thương mình, mắc tội, nên bị chê cười, phát sinh nhiều điều phi phước; khi thân hoại mạng chung sẽ rơi vào đường hiểm ác, sinh vào trong địa ngục.

- “Những ai có khả năng dứt bặt hết năm điều tội oán đáng sợ hãi này, thì đối với đời sống hiện tại, họ sẽ được các vị Hiền thánh cùng khâm phục khen ngợi; được gọi là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có tội, không bị chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân hoại mạng chung được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung . Những gì là năm? Đó là:

- “Tránh sát sinh, do nhân duyên tránh sát sinh nên diệt được tội oán sợ hãi; tránh được sát sinh, đó gọi là (trường hợp) thứ nhất.

- “Tránh không cho mà lấy, do nhân duyên tránh được trộm cắp, nên diệt được tội oán sợ hãi; có khả năng diệt được trộm cắp, đó gọi là thứ hai.

- “Tránh xa dục tà hạnh, do nhân duyên tránh xa được dục tà hạnh nên diệt được tội oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa tà hạnh, đó gọi là thứ ba.

- “Tránh xa lời nói hư dối, do nhân duyên tránh xa lời nói hư dối nên diệt được tội oán sợ hãi; có khả năng diệt được lời nói hư dối, đó gọi là thứ bốn.

- “Tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, vì tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật nên diệt được tội oán sợ hãi; vì có khả năng tránh xa sự uống, nếm các loại rượu, các trường hợp say sưa, phóng dật, đó gọi là thứ năm.

- “Ai có khả năng dứt hết năm điều tội oán sợ hãi như vậy, thì người đó đối với đời sống hiện tại được các vị Hiền thánh đồng khâm phục khen ngợi, được gọi là những người trì giới, tự phòng hộ chính mình, không có tội, không bị chê cười; phát sinh nhiều điều phước thù thắng, khi thân hoại mạng chung được lên cõi an lành, sanh về cõi Thiên trung. Sau đó Thế Tôn liền nói kệ để tóm lại nghĩa trên rằng:

Các hành sát, đạo, dâm,

Nói dối, ham các rượu;

Bị năm tội oán trói,

Bị Thánh hiền chê trách.

Là phạm giới tự hại,

Có tội, chiêu phi phước;

Chết rơi đường hiểm ác,

Sinh vào các địa ngục.

Tránh các sát, đạo, dâm,

Hư dối, các thứ rượu;

Thoát năm oán đáng sợ,

Thánh hiền đều khen phục.

Là trì giới, tự giữ,

Không tội, cảm nhiều phước;

Chết về đường an lành,

Sanh vào trong Thiên giới.”

- Đó là năm pháp được đức Phật thuyết giảng cho các hàng cư sĩ tại gia vào lúc bấy giờ, và được tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên lập lại trong: ‘A-tỳ-đạt-ma pháp uẩn túc luận.’ của ngài. Trong năm pháp này, đứng về mặt muốn đạt đến hạnh phúc mà nói, thì bốn cấm giới đầu thuộc về tánh giới , còn giới thứ năm chỉ là giá giới , được đức Phật thiết lập, làm nền tảng cơ bản cho cả hai hàng xuất gia và tại gia trong việc thanh tịnh hóa cuộc sống qua sự thể hiện thân và tâm, để từ đó làm nhân cho cuộc sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, hay trong tương lai cho cõi Nhân-Thiên sau này. Cũng chính vì điều này mà ngũ giới cũng còn được gọi là ngũ đại thí . Ngược lại nếu không thực hành năm điều cấm giới này mà phạm vào chúng thì coi như hậu quả theo sau đó sẽ đưa đến cuộc sống khổ đau trong hiện tại, hay sẽ rơi vào cuộc sống khổ đau trong đường hiểm ác nơi địa ngục trong tương lai. Trong năm giới này tuy bốn giới đầu chúng thuộc về tánh giới, nhưng đối với hàng tại gia thì có khác với hàng xuất gia trong việc khai-giá-trì-phạm , và cũng có thể tùy theo hoàn cảnh sống, và duyên nghiệp của mọi người tại gia mà theo đó có thể gia giảm trong việc trì phạm, hay theo khả năng của mỗi người mà áp dụng theo giới mà mình đã nguyện thọ trì trong khi truyền giới và nhận giới của họ, chứ không bắt buộc phải giữ hết năm giới; trường hợp nếu nguyện thọ trì hết năm giới thì tốt. Trong năm giới đối vời hàng cư sĩ tại gia chỉ có một giới thứ ba là khác một chút đối với năm giới của các hàng xuất gia là, chỉ khi nào vượt qua giới hạn chức năng làm chồng hay làm vợ mà thôi, vì giới này chỉ cấm tuyệt hẳn dành cho hàng xuất gia, còn tại gia thì vì chức năng làm vợ làm chồng, và chức năng kế tục giữ gìn nòi giống, nên chỉ cấm việc tà dâm mà thôi. Do đó, người nam hay người nữ thuộc hàng tại gia chỉ bị giới hạn trong tà dâm (tà hạnh). Đây là năm cấm giới đối với hàng cư sĩ tại gia, nếu người nào áp dụng và thực hành trọn vẹn thành tựu năm pháp này thì mới đưa đến hạnh phúc một cách trọn vẹn, và thật sự sẽ được sinh về cõi trời sau khi qua đời, còn nếu không thì phải tùy theo giới mà mình đã trì giữ nhiều hay ít, có trọn vẹn giới ấy hay không mà có kết quả theo việc làm của mình là có hạnh phúc ít hay nhiều trong hiện tại hay trong tương lai nơi cõi người, hay cõi trời.

- Ở đây, vấn đề khổ đau, hay hạnh phúc có được đều bắt nguồn từ hành động gây nhân trước đó để đưa đến hậu quả tất yếu phải nhận lãnh do thân-khẩu-ý đã gây ra từ năm pháp mà ra. Đối với năm pháp Giết sanh mạng, Trộm cắp, Tà hạnh, Nói dối, Uống rượu này mà chúng ta tạo tác hay hành động theo động cơ thúc đẩy của Ý qua ý hành, thân hành, và khẩu hành, thì đó là nguyên nhân dẫn đến hậu quả thiện hay ác, tùy đó mà có kết quả hạnh phúc hay đau khổ có được của chúng ta theo sau chúng. Vậy sự hợp tác giữa năm pháp này và ba hành thân-khẩu-ý chúng đẻ ra ba nghiệp thân-khẩu-ý dẫn dắt chúng ta đi đến nơi khổ đau hay hạnh phúc đều tùy thuộc vào hành động hay sự tạo tác của chúng ta. Từ đây chúng ta thấy sự liện hệ duyên khởi thuận-nghịch rất rõ ràng bắt đầu từ hành động giết hại sanh mạng hay không giết hại sanh mạng; trộm cắp hay không trôm cắp, tà dâm hay không tà dâm; nói dối hay không nói dối; uống rượu hay không uống rượu. Và cũng từ đây chúng ta thấy sự liên hệ bắt đầu từ năm pháp này đối với tất cả những pháp khác qua duyên khởi chúng trở thành trùng điệp không đầu không mối. Chỉ mới trong năm pháp này mà chúng ta đã nhận ra được sự liên hệ của chúng đến Duyên khởi, đến Nhân duyên, đến Nhân quả, đến Nghiệp báo, đến ba cõi, sáu đường, đến luân hồi v.v... nói chung là liên hệ đến các pháp. Chính vì sự liên hệ nhân quả duyên khởi này mà Năm pháp đã trở thành pháp căn bản mấu chốt của mọi vấn đề giải quyết khổ đau và hạnh phúc của con người, cho dù là xuất gia hay tại gia.

- Chúng ta mỗi người bất đầu tu từ đây, và cũng kết thúc từ đây, nghĩa là đối với năm pháp này cần phải bắt đầu áp dụng vào thực hành, thì chúng ta mới thấy được cái giá trị của chúng sẽ đưa đến tốt hay là xấu, khổ đau hay là hạnh phúc. Cũng cùng áp dụng và thực hành một pháp, nhưng chúng sẽ cho chúng ta hai kết quả trái ngược nhau; nếu chúng ta biết cách áp dụng và thực hành đúng thì chúng sẽ dẫn đến kết quả tốt, hạnh phúc; ngược lại nếu áp dụng sai thì chúng sẽ dẫn đến kết quả xấu, khổ đau. Đức Phật đã đứng trên lập trường Nhân quả mà nói về nguyên nhân tạo tác năm pháp có thể đưa đến đau khổ, hay hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai.



NĂM PHÁP CÓ THỂ ĐƯA ĐẾN

ĐAU KHỔ HAY HẠNH PHÚC



1- Sát sinh hay tránh xa sát sinh:

- Trong giới hạn của bài này, thì sinh ở đây chỉ cho các loài chúng sanh có tình thức, biết ham sống, sợ chết như loài người là tội chính, còn các loài sinh vật nhỏ bé nhất như vi trùng đã có mạng sống thì thuộc tội nhẹ. Ở đây chúng tôi chỉ nói đến giết hại mạng sống của con người, nên những chúng sanh này mà ta vô cớ giết hại chúng, thì sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

Có năm điều kiện hội đủ để trở thành tội sát sinh:

a/ Đối tượng phải là người.

b/ Tưởng là người.

c/ Cố ý giết.

d/ Phương tiện.

e/ Người chết.

- Sau khi chúng ta hoàn thành việc giết người, thì hành động đã tạo tác xong trở thành nghiệp nhân. Tùy theo ý hợp tác với lời nói để đưa đối tượng đến chỗ chết, hay bằng đồ vật do chân tay mang lại cái chết cho đối tượng, thì theo đó trở thành ý nghiệp, thân nghiệp, hay khẩu nghiệp. Từ nghiệp nhân này đưa đến nghiệp quả phải nhận lãnh ngay trong hiện tại, hay ở đời sau còn tùy thuộc vào sự đầu thú hay không đầu thú của thủ phạm, đã bị phát hiện hay không bị phát hiện, mà nhận lãnh quả báo.

- Trường hợp nếu đầu thú sớm, thì sẽ có kết quả sau đó do tòa án phán quyết, hoặc bị tội tử hình, hoặc tội chung thân khổ sai; nếu không đầu thú hay không bị phát hiện, thì trong hiện tại tuy trên hình thức chưa chịu quả báo tù tội khổ đau, nhưng trên thực tế có thể tâm thần không được an ổn, luôn lo sợ bị phát hiện, và đây cũng là một hình thức chịu quả tuy là chưa chính thức, nhưng cuối cùng kiếp sau cũng phải nhận quả mà thôi. Như vậy sự khổ đau trong hiện tại đang chịu là nghiệp quả được sinh ra từ những hành động tạo tác trước đó trong quá khứ đời trước, chúng di hại di truyền cho đến ngày nay, chúng ta gọi là nghiệp nhân. Từ nghiệp quả chủng tử di truyền hiện hữu này, cọng với chủng tử nghiệp nhân tạo ra trong hiện tại, chúng ta có một thứ Nhân-quả mới trong hiện tại, và từ cái nhân được tạo ra trong hiện tại chúng sẽ dẫn đến cái quả sau đó ở ngay trong cuộc sống này hay kiếp sau, và cứ như thế chúng ta cứ tạo nhân, nhận quả trôi dạt mãi trong ba nẻo ác luân hồi khổ đau. Đây là chúng tôi mới chỉ đề cập đến nhân quả thuộc phân đoạn sinh tử, chứ chưa nói đến nhân quả trong biến dịch sinh tử, thay đổi trong từng sát na một. Nhân quả mà chúng tôi đang đề cập ở đây cũng mới chỉ là thứ nhân quả do Chánh báo cá nhân tạo ra chứ chưa nói đến nhân quả do Y báo tập thể cộng đồng xã hội tạo ra nhân và hưởng quả tương tác với nhau. Vì một người nhận lãnh kết quả của chính mình trong hiện tại mang cả hai đặc tánh vừa mang nhãn hiệu Chánh báo cá nhân mình, và vừa mang nhãn hiệu Y báo cộng đồng xã hội, từ cha mẹ anh em gia đình cho đến xã hội mà mình xuất hiện ra đời. Sự hổ tương duyên khởi này đã tạo ra chính cuộc sống mà nạn nhân đang hiện hữu theo đó chúng có những đặc thù riêng biệt mà chỉ nơi đó có mà thôi, thí dụ như cõi người, cõi trời, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. v.v... chúng có những đặc tính riêng của từng nơi thuộc Y báo mà Chánh báo chúng khế hợp duyên đủ đối với nơi họ đến mà không có nơi nào khác lẫn lộn đối với họ. Sự liên hệ Duyên khởi nơi dây chính là sự liên hệ huyết thống, màu da, xứ sở, giàu nghèo, tốt xấu, khổ đau, hạnh phúc. v.v... và đó cũng chính là kết quả của sự hình thành liên đới giữa Biệt nghiệp và Cộng nghiệp của cá nhân và xã hội chúng thể hiện ra trong cõi đó.

- Tại sao chúng ta giết hại sanh mạng lại đưa đến khổ đau? Như đức Phật đã dạy ở trên sát sinh sẽ đưa đến tội oán đối lẫn nhau. Vậy từ sự sát hại sinh mạng này sẽ đưa đến sự liên hệ liên kết lẫn nhau giữa nhân và quả trong hiện tại cũng như trong tương lai qua định luật duyên khởi. Sự liên hệ hổ tương duyên khởi này nói lên đặc tính thành tựu và hủy diệt của các pháp trong duyên đủ; về một mặt nào đó chúng có thể thành tựu đồng thời khổ đau hay hạnh phúc, và ngược lại chúng có thể hủy diệt đi cũng đồng thời khổ đau hay hạnh phúc. Do đó, khi mà có sự hiện diện của sát hại thì đồng thời cũng nảy sanh ra hai thái cực trong cái thành tựu của khổ đau cho người này, thì sẽ nảy sanh cái hủy diệt dành cho hạnh phúc người khác, vì vậy mà oán đối phát sinh, và khi oán đối đã phát sinh thì khổ đau sẽ hiện hữu. Giữa chủ thể giết hại và đối tượng bị giết hại, cả hai đều bình đẳng trên tánh giác, cho dù có thể sai biệt hay khác nhau trên hình tướng, giai cấp, giàu nghèo, sắc màu, tôn giáo v.v... đi nữa, chúng cũng có đủ mọi thứ quyền như tất cả mọi người, có đủ mọi thứ tình cảm, mọi thứ bản năng, mọi thứ lý trí như mọi người, và những thứ này được hướng đạo bỡi một chủ thể tạm cho là ngã, là tôi, hay là ta. Từ cái ngã, tôi, ta này phát sinh ra đủ thứ chuyện nhằm củng cố, và nuôi dưỡng chúng lớn mạnh thêm qua sự thúc đẩy vô hình của tham, sân, và si từ bên trong, mà đức Phật gọi là ba độc. Chúng sử dụng thân-khẩu-ý như là một thứ công cụ để tạo ra mọi việc có lợi cho mình trong việc nuôi lớn cái chấp ngã vô minh, và hủy diệt, san bằng bất cứ chướng ngại nào cản bước đường tiến tới. Chính vì cái vô minh tà kiến chấp ngã này đẻ ra cái vô minh tà kiến chấp pháp, và từ đây có của ta, và có những cái liên hệ đến ta, có những sở hữu của ta: có đất nước ta, có dân tộc ta, có dòng họ huyết thống của ta, có tổ tiên ta, có ông bà cha mẹ ta, có vợ chồng con cái ta, có sắc tộc ta, có tôn giáo ta, có châu lục ta, có ngôn ngữ ta, có đủ thứ trên đời của ta. Cũng từ đó sanh ra chiếm hữu, và mọi cuộc chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành đủ thứ xảy ra, an ninh trật tự bắt đầu mất an ninh, cuộc sống của mọi người mọi sinh vật cũng từ đây bất an, chuyện giết hại lẫn nhau không tránh khỏi và đau khổ lầm than bắt đầu hiện hữu. Suốt hai thiên niên kỷ qua, lớn thì qua hai cuộc thế chiến; nhỏ thì không biết bao nhiêu mà kể, nào là chiến tranh giữa các tôn giáo với nhau, nào là thánh chiến, nào là thập tự chinh, nào chiến tranh giữa các sắc tộc với nhau, chiến tranh ý thức hệ với nhau, chiến tranh xâm lược chiếm thuộc địa, chiến tranh vì chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc cũ, chủ nghĩa đế quốc mới v.v... Những cuộc chiến tranh như vậy, trước hết chúng bắt nguồn từ những xung đột vô thức giữa các cộng nghiệp với nhau, giữa các biệt nghiệp với nhau trong một cái cộng nghiệp chung của kiếp người trên mặt đất này, mà mấu chốt chúng cũng bắt nguồn từ vô minh hoặc nghiệp tà kiến của những thứ cộng nghiệp, hay các biệt nghiệp đã di truyền từ chủng tử kiếp trước di hại lại cho đến cái quả đời hiện tại, cọng với cái nhân của các hành động vô minh tà kiến trong hiện tại do chính chúng ta và hoàn cảnh luân lý xã hội tạo ra, đã tạo thành một thứ bản ngã cá nhân và tập thể khó bề thay đổi được. Chúng luôn luôn thúc đẩy mọi người lo bảo vệ và nuôi lớn vô minh tà kiến chấp ngã chấp pháp càng nhiều càng tốt, nên việc xung đột càng ngày càng trở nên gay gắt và nghiêm trọng hơn. Những sự kiện đấu tranh để sinh tồn càng trở nên sâu sắc và thủ đoạn hơn, với mục đích là triệt hạ những gì không thuộc về của ta và tóm thâu những gì nếu mình muốn thuộc về mình. Vì vậy những cuộc chiến tranh về sau này, càng trở nên khốc liệt và bạo tàn hơn, dưới mọi hình thức và bất kể thủ đoạn, con người giết hại tàn sát lẫn nhau, không những chỉ có con người giết hại con người mà con người còn giết hại bao nhiêu sinh vật khác, triệt hạ cả những môi trường sống chung quanh, miễn sao thõa mãn được lòng tham, lòng thù hận trả thù, lòng ích kỷ, có lợi cho cá nhân mình, tập thể mình, đất nước mình, tôn giáo mình, sắc tộc mình thì họ làm chứ họ không cần đến hậu quả di hại chung cho cả thế giới. Trong khi họ thõa mãn được lòng tham, lòng thù hận qua hành động si mê của mình như vậy là tạo ra tội oán đối, nhưng họ đâu có biết rằng chính hành động của họ là nguyên nhân đẩy người khác vào chỗ đấu đầu thù hận ngay trong hiện tại cũng như mai sau. Nếu họ chỉ cần biết nhìn ra cái đau khổ oán hận nơi người khác qua chính mình, thì có lẽ họ không bao giờ có hành động sát hại để di hại đến khổ đau oán hờn đối với những người khác, và cũng không bao giờ nhân danh mình hay nhân danh bất cứ ai, hay bất cứ chủ nghĩa nào, tôn giáo nào, hay bất cứ khuynh hướng chính trị nào để khuấy động chiến tranh chén giết lẫn nhau mà thu lợi về mình. Vì tất cả những nhân danh đó đều là trá hình của chấp ngã chấp pháp mà thôi, rốt cuộc tự chính ta tạo ra tội oán đối với những hoàn cảnh liên hệ duyên khởi chung quanh, đáng lý ra chúng phải được nuôi dưỡng và trân trọng để tạo ra hạnh phúc an vui cho chính con người và xã hội; đằng này chúng ta tạo ra sự xung đột sát hại lẫn nhau, khiến cho xã hội bất an, mà khi xã hội bất an là chính chúng ta những người tạo ra chiến tranh sát hại cũng bất an; vì giữa ta và xã hội có sự liện hệ duyên khởi mật thiết (cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh; cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt) đó là một định luật tất yếu của cuộc sống, không thể thiếu được. Một người nếu sát hại mạng sống kẻ khác thì sẽ dẫn đến những hậu quả sau đây: Trước hết đối với bản thân họ hai trong ba hành này sẽ liên quan trực tiếp đến cái chết đó là ý hành cùng với thân hành hay khẩu hành, điều này tùy thuộc vào hành nào đi chung với ý hành để đưa đến cái chết cho đối tượng. Ý hành lúc nào cũng có trước và điều động hai hành kia thi hành theo nó, như khi ý phát khởi lên ý giết hại người để cướp đoạt tài sản của kẻ khác chẳng hạng, hay do lòng thù hận trả thù, hoặc do lừa đảo lường gạt để kiếm lợi về mình, thì thân hành theo sự điều động của ý đi đến chỗ muốn cướp, bằng đủ mọi cách thân hành động khiến cho khổ chủ chết đi, thì người này mang hai nghiệp sát sinh của ý và của thân. Trường hợp muốn giết người cướp của qua ý sai khiến miệng nói khiến cho kẻ khác không chịu được ôm hận hay nhục mà chết, hay nói để lừa gạt được người, đưa thân chủ đến chỗ chết, thì người này mang hai nghiệp thuộc ý và khẩu. Khi họ hoàn thành việc sát hại kẻ khác như vậy thì nghiệp sát cũng theo đó mà hình thành, và tạo thành nhân sát hại sinh mạng, và từ đây sẽ đưa đến hậu quả của nó theo sau đó, trong hiện tại hay trong tương lai. Trường hợp nếu án mạng này bị phát hiện và tìm ra được thủ phạm ngay trong hiện tại, thì hậu quả của nó sẽ tùy theo pháp luật hiện hành của nhà nước vào lúc đó mà bị phạt tử hình hay tù chung thân gì đó. Trường hợp nếu không bị phát hiện và được bỏ qua, thì nghiệp quả sẽ trả vào kiếp sau đối với chính mình trong đường hiểm địa ngục như Phật đã dạy ở trên. Đó là nói về bản thân của người sát hại kẻ khác, còn bản thân của những kẻ bị giết hại thì ôm lòng thù hận, quyết định phải trả thù; từ đây oán đối hình thành, tạo nghiệp sân hận, và si mê thuộc ý, và cứ như thế theo nghiệp duyên tạo thân, thân tạo nghiệp trôi lăn mãi trong sáu đường luân hồi vay trả, trả vay không bao giờ thoát khỏi khổ đau. Đó là chúng ta mới đề cập đến cá nhân người sát hại, và người bị sát hại, nhưng mỗi cá nhân như vậy chúng hiện hữu và có giá trị được là nhờ sự hiện hữu của đồng loại, và mọi sự vật chung quanh, vì chúng liên hệ theo định luật duyên khởi. Vậy khi một người giết hại người khác thì chính cả đồng loại và mọi sự vật cũng chịu liên hệ liên đới với nhau trong tội sát này, và đối với sự oán đối thù hận của kẻ bị giết, cũng can hệ mật thiết đối với đồng loại và mọi sự vật chung quanh. Thật là thú vị với tư tưởng này chúng ta có thể liên hệ về một khía cạnh nào đó, với nếp sống của dân tộc Việt nam trong phong dao tục ngữ thì cũng có những câu chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng này như : ‘Con dại cái mang’ hay ‘Mũi dại lái chịu đòn.’ Tuy ở đây chỉ nói lên được cái liên hệ huyết thống, hay liên hệ tập thể trong một chừng mực nào đó, nhưng chúng cũng nói lên được tính đặc thù của tư tưởng này, nếu chúng ta biết tư duy và liên hệ sâu xa một tí nữa về nhiều mặt như: chánh trị, xã hội, kinh tế, quân sự, y tế, giáo dục, văn hoá, vân vân và vân vân, thì chính tư tưởng này nó bao trùm tất cả mọi liên hệ trong cuộc sống của chúng ta.

- Do đó mỗi hành động của chúng ta được hình thành thì theo đó di truyền lại cho kết quả trước hết là cá nhân và sau nữa là tập thể xã hội. Một người bị giết hại ngoài sự mất đi một thành viên trong một gia đình, trong một cộng đồng xã hội thôi, mà nó còn di hại đến hiệu quả sản xuất, hay tiêu dùng cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc cung cầu nữa, như trên chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu như sát hại sinh mạng chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội. Như hiện tại vấn đề môi trường sinh thái đã đang và sẽ được cả toàn thể các quốc gia trên thế giới ra sức tuyên truyền về việc tác hại của chiến tranh giết người và, ra sức bảo vệ các loài động thực vật một cách nghiêm ngặt, từ trên rừng cho đến dưới biển; không cho con người sát hại một cách bừa bãi và tùy tiện, là nhằm bảo vệ môi trường sống cho nhân loại, nếu không có chúng thì nhân loại và vạn vật trên trái đất này sẽ đi đến chỗ diệt vong không xa.

- Như vậy, qua pháp giết hại sinh mạng, nó có những tai hại đối cá nhân và xã hội cho hiện tại như đức Phật đã dạy ở trên, và mặc khác nó còn di hại trong tương lai qua biệt nghiệp và cọng nghiệp nơi quốc độ mình phải đến như địa ngục. Đức Phật hoàn toàn chính xác trong việc khuyên con người không nên sát hại các sinh vật khác trong đó con người là chính, trước hết nếu tránh không giết hại sinh mạng thì sẽ không tạo ra tội oán đối với người với vật. Như vậy nghiệp thân-khẩu-ý không thành, thì ba độc tham, sân, si không hiện hữu trong sát hại. Ở đây vì nhân sát hại của thân-khẩu-ý không tạo ra, nên không có hậu quả tù tội, giam cầm, hay bị người ghét bỏ, sống an lành không bị xáo trộn lo toan, và sau khi thân hoại mạng chung vì không tạo nghiệp sát hại thân-khẩu-ý nên không sanh về đường hiểm ác địa ngục chịu đau khổ, mà được sanh về cõi trời hưởng nhiều hạnh phúc. Trong pháp này nếu người nào tránh khỏi không sát hại thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ nhất trong năm học xứ trên.

2- Không cho mà lấy hay tránh xa không cho mà lấy:

- Đây là pháp thứ hai còn gọi trộm cướp, hay tránh xa không trộm cướp. Ở đây, chỉ chung cho những vật không thuộc sở hữu của mình mà muốn thành của mình, chủ vật sở hữu không cho mà chúng ta đem tâm trộm cướp lấy cho mình, dù là vật đó để ở nơi đâu mà có chủ thì không được không cho mà lấy. Hành vi hủy phạm vào giới không cho mà lấy thứ hai này, cũng tùy thuộc vào những vật mà chúng ta đã lấy nhiều hay ít, có giá trị nhiều hay giá trị ít, theo đó tội cũng tùy thuộc vào chúng là nặng hay nhẹ, và như vậy sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiên tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

- Nếu là nặng thì thành tội bất khả hối và, chúng phải hội đủ sáu điều kiện sau đây:

1/ Tài vật của người khác.

2/ Biết rõ tài vật đó là của người chứ không phải của mình.

3/ Khởi lên tâm trộm cướp, hay có tâm dự mưu trộm cướp trước.

4/ Tìm cách lấy và hoàn thành mục đích trộm cướp.

5/ Tài vật được trị giá là năm tiền. (giá trị của tài vật này còn tùy thuộc vào quốc độ sở tại của nó về việc người trộm bị lên án tử hình nếu như trộm cướp vật trị giá như vậy).

6/ Dời khỏi chỗ cũ.

- Đó là sáu điều kiện đủ để kết án, khi nào hành động của chúng ta đã hoàn thành việc trộm cướp vật của người khác không cho mà lấy. Giới này cũng như giới thứ nhất, sự hoàn thành một kết quả hành động phải từ tâm có ý nghĩ trộm cướp vật của người kinh qua lời nói của miệng hay hành động của thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy được xã hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, hay khi hành động đó có hại cho vật người khác với giá trị từ năm tiền vàng trở lên, hay bao nhiêu tùy thuộc vào quốc gia, xã hội đó ấn định, thì người phạm vào giới này mắc vào tội trọng không cho sám hối để trừ tội và, trong tương lai sẽ đọa vào trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu báo khổ đau, tùy theo nơi họ bị đọa vào.

- Cũng như giới thứ nhất sự tác hại hỗ tương của nó trong hiện tại cũng như những di hại hỗ tương trong tương lai không khác gì với giới thứ nhất, chúng chỉ khác nhau trên mặt hiện tượng về tội danh thôi, nhưng về kết quả phải chịu nặng nhẹ đồng nhau. Do đó mỗi hành động của chúng ta được hình thành thì theo đó di truyền lại cho kết quả trước hết là cá nhân và sau nữa là tập thể xã hội. Một người cướp của giết người, ngoài sự mất đi an ninh trật tự của một xã hội, nó làm mất đi một thành viên trong một gia đình, trong một cộng đồng xã hội, trong việc di hại đến hiệu quả sản xuất, hay tiêu dùng cho một gia đình hay một xã hội nào đó trong việc cung cầu nữa, như trên chúng tôi đã trình bày. Cho nên một hành động xấu như cướp của giết người chẳng hạn chúng sẽ di hại xấu cho cả một xã hội, như trong vấn đề an ninh trật tự xã hội, vấn đề kinh tế của một quốc gia. Nếu tất cả mọi người không lo làm ăn mà ai cũng ngồi đó, chờ cho kẻ khác làm sẵn ra tiền bạc của cải, rồi mình ra tay cướp lấy để mình tiêu xài, thì gia đình đó, xã hội đó sẽ đi đến đâu? chắc chắn là sẽ đưa tất cả mọi người đến chỗ mất an ninh trật tự, nghèo nàn, lạc hậu khổ đau và, cuối cùng là chết đói, gia đình xã hội tan rã.

- Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta, ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất. Trong pháp này nếu người nào tránh khỏi không trộm cướp thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ hai trong năm học xứ trên.

3. Dục tà hạnh hay tránh xa dục tà hạnh:

- Đây là pháp thứ ba, còn gọi là dục tà hạnh, hay tránh xa dục tà hạnh. Ở đây trừ qua hệ nam nữ giữa vợ chồng có hôn thú, ngoài ra tất cả những quan hệ với nam nữ mà luật pháp quốc gia, hay đạo đức của một xã hội nơi chúng ta cư trú không cho phép, thì đều là những quan hệ bất chính còn gọi là tà hạnh hay tà dâm. Như kinh Viên Giác nói: ‘Tất cả các loài chúng sanh trong các thế giới, dù sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh nơi ẩm thấp, hay hoá sinh, mà hiện hữu được thì cũng đều phát xuất từ dâm dục mà có tánh mạng.’ Đủ để nói lên sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này chính là sự tồn tại của dâm dục. Do đó nếu muốn chúng sinh phàm phu dứt hẳn dâm dục, thì đó là một điều khó khăn khó thực hiện được trong một sớm một chiều. Do đó đức Đạo sư đã phương tiện cho những chúng sinh tại gia ở cõi dục chỉ được giới hạn trong sinh hoạt vợ chồng mới tạm gọi là chính đáng. Chúng sanh ở cõi này muốn dứt hết dâm dục thì phải tu chứng đến tam quả A-na-hàm , và như vậy chỉ dành cho hàng xuất gia, trong việc toàn đoạn dâm dục.

- Sự an lập của chúng sanh trong cõi thế gian này, chủ yếu do sự hoà hợp giữa nam và nữ khi được gọi là vợ chồng. Sự hoà hợp trong sinh hoạt vợ chồng này nếu là bình thường thì sẽ không mang đến cho xã hội những bi kịch xáo trộn, mang lại mọi hạnh phúc cho mọi cá nhơn, mọi gia đình trong một xã hội. Ngược lại chúng mang lại cho mọi người, mọi gia đình những đổ vỡ trong quan hệ vợ chồng, cha con, mẹ con, người thân trong gia đình, ra đến bạn bè trong xã hội; mang đến cho mọi người một cuộc sống bất an xáo trộn do sự liên hệ bất bình thường, vượt qua khỏi giới hạn của vợ chồng. Từ đây cũng sẽ dẫn đến những cái chết mà nói ra thì không ai muốn, nhưng trên thực tế hằng ngày thường xảy ra luôn: bị giết vì giam dâm, vì tình, vì hiếp dâm, dụ dỗ, vì thông dâm, đồng lòng thông dâm phá hoại gia đình v.v… Và cũng sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi.

- Vì muốn tạo hạnh phúc an lạc cho nhân gian nên đức Phật đã chế định dục tà hạnh cho nam nữ cư sĩ tại gia.

- Dục tà hạnh phải hội đủ bốn điều kiện thì phạm tội nặng bất khả hối:

1/ Đúng đối tượng.

2/ Có tâm dâm.

3/ Đúng ba nơi là đường miệng, đường tiểu tiện và, đường đại tiện mà hành dâm.

4/ Tác thành sự thật hành dâm, cho dù hai căn của nam và nữ chỉ vào một chút như hạt mè, cũng thành tội bất khả hối.

- Giới này vì dành cho chúng sanh tại gia cho nên chỉ giới hạn trong phạm vi vợ chồng, mục đích là mang đến hạnh phúc an lạc cho chúng sanh cõi dục này, chứ chưa nhằm đến mục đích giải thoát, nên trong kinh Ưu-bà-tắc ngũ giới tướng đức Phật có Khai cho người tại gia nam là: ‘Nếu Ưu-bà-tắc nào cùng dâm nữ hành dâm, không trả tiền, thì phạm tà dâm bất khả hối, còn trả tiền thì không phạm’ . Nhưng: “Trong Đại thừa Bồ-tát giới, nếu không phải là Bồ-tát địa thượng (bậc sơ địa trở lên), vì nhân duyên nhiếp hoá, chẳng được có hành vi này ”. Thật sự, ở đây có sự khác biệt như vậy là vì một đằng đức Phật muốn chúng sanh tại gia có cuộc sống hạnh phúc đứng về mặc luân lý xã hội, và mặc khác là đứng về phương diện đạo đức giải thoát, nên có sự mâu thuẫn giữa kinh Ưu-bà-tắc và Đại thừa Bồ-tát giới kinh. Đây chính là Giới được đức Phật Khai (trong khai-giá-trì-phạm) cho các cư sĩ tại gia; và cũng là cư sĩ tại gia nhưng đã thọ giới Bồ-tát rồi thì dứt khoát không được phạm (giá) vào hành vi này. Đây là một vấn đề tế nhị và phức tạp, cho nên ngay trong giới này đức Phật cũng giới hạn và mở cho những đối tượng nào, tuỳ theo căn cơ mà các chúng sanh đó nguyện thọ trì, thì theo đó mà khai hay giá. Và giới này đức Phật cũng căn cứ vào xã hội Ấn độ vào lúc bấy giờ, do đó việc chế giới cũng tuỳ thuộc vào xã hội đó. Hiện tượng trên là hiện tượng phổ biến tại xã hội Ấn độ vào lúc đó, nên đức Phật cũng phải căn cứ vào xã hội đó mà chế giới. Nhưng hiện tượng này đối với Việt nam, hay nhiều xã hội khác trên hành tinh này cho là một hiện tượng không lành mạnh, không phải là tấm gương tốt của người thiện, thì chúng ta cũng căn cứ vào những lời dạy của đức Phật về việc Khai-Giá-Trì-Phạm đối với giới luật như thế nào để chúng ta cũng theo đó mà hoàn thành một cuộc sống hạnh phúc an lành ngay trên trái đất này. Vì theo đức Phật, việc chế giới Ngài luôn luôn căn cứ vào tướng phạm để mà chế. Nhưng tướng phạm thì luôn tuỳ thuộc vào sinh hoạt luân lý thói quen tập quán của xã hội đó chúng hình thành. Vì vậy đối với hiện tượng này, khi chúng ta đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp rồi thì chúng ta cũng nên coi đây là một hành vi tà dâm, vì một mặc chúng nuôi lớn dục tham của con người.

- Giới này cũng như giới thư nhất, thứ hai, sự hoàn thành một kết quả hành động phải từ tâm có ý nghĩ dục tà hạnh kinh qua lời nói của miệng hay hành động của thân, được thể hiện qua kết quả làm hại kẻ khác, mà kết quả ấy được xã hội hay quốc gia đó chấp nhận là một bản án tử hình, khi hành động đó có hại cho người khác, thì người phạm vào giới này mắc vào tội trọng không cho sám hối để trừ tội, và trong tương lai sẽ đọa vào trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh chịu báo khổ đau, tùy theo nơi họ bị đọa vào.

- Sự tác hại liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như hai giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa dục tà hạnh thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ ba trong năm học xứ trên.

4. Lời nói hư dối, hay tránh xa lời nói hư dối:

- Đây là pháp thứ tư, còn gọi là lời nói hư dối, hay tránh xa lời nói hư dối. Ở đây, lời nói hư dối mang phong cách lường gạt lừa đảo người khác để thủ lợi về mình dưới mọi hình thức, mà người bị mình lừa gạt bị thiệt hại mà họ không biết, hay có biết ra cũng đã muộn rồi. Có một định nghĩa chung cho việc vọng ngữ là: không biết nói biết, biết nói không biết; không thấy nói thấy, thấy nói không thấy; không hay nói hay, hay nói không hay; không nghe nói nghe, nghe nói không nghe. Và trong vọng ngữ còn gồm có cả nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói thiêu dệt không đúng nghĩa, tuy không thuộc tội bất khả hối, nhưng chúng cũng thuộc gây ra bất hoà xáo trộn trong cuộc sống, đem đến khổ đau cho nhau trong hiện tại, nên chúng thuộc vào tội khả hối.

- Lời nói hư dối cũng như định nghĩa trên, nhưng trong Phật giáo chia ra làm ba loại: Đại vọng ngữ , tiểu vọng ngữ, và phương tiện vọng ngữ. Đại vọng ngữ là lời những nói hư dối không thật trên thực tế, như hiện tại mình chưa chứng Thánh mà nói với mọi người là mình đã chứng Thánh v. v…; tiểu vọng ngữ là ngoại trừ những lời đại vọng ngữ ra, còn những lời nói không thật dùng để dối gạt mọi người, nói chung tất cả mọi sự nói dối đều là tiểu vọng ngữ; phương tiện vọng ngữ là những lời nói nhằm vì cứu độ chúng sanh, Bồ-tát xuất gia tại gia có thể phương tiện vọng ngữ như: Có kẻ say muốn giết người đến hỏi có thấy người kia không, nếu có thật thấy người kia đi nữa, nhưng vì muốn cứu người kia nên nói không thấy thì không có tội.

- Riêng đại vọng ngữ ở đây phải hội đủ chín điều kiện , mới thành tội trọng bất khả hối, và cũng vì bất khả hối cho nên sẽ đưa đến tội oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi:

1/ Nói với người.

2/ Tưởng là người.

3/ Không thực có chứng.

4/ Tự biết không thực có chứng.

5/ Có tâm dối gạt.

6/ Nói ra pháp thượng nhơn.

7/ Tự nói mình chứng pháp ấy.

8/ Nói rõ ràng.

9/ Nói người đối diện hiểu.

- Đó là chín điều kiện đủ để hoàn thành tội danh trong giới nói lời hư dối này, nếu không hội đủ chín điều kiện này thì chưa đủ cơ sở để kết án là mắc tội bất khả hối, và như vậy chúng thuộc về tội khả hối. Ở đây, đối với giới đại vọng ngữ này mới nghe ra trên mặt biểu tượng ngôn ngữ chúng có vẻ vô thưởng vô phạt, không có hại cho ai cả, nếu có hại đi chăng nữa thì cũng do đối tượng tự nguyện. Còn đối với người nói, nếu ai đó phát hiện ra được thì họ bị thiên hạ coi như là một kẻ ngông cuồng tự cao tự đại thế thôi. Nhưng nếu chúng ta nhìn sâu và kỹ một tí nữa, thì vấn đề này chúng không đơn giản như chúng ta nghĩ, mà chúng là nhân đưa đến ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì sao? Vì theo những lời Phật dạy trong luật Tứ phần thì đây là một trong hai loại giặc , lớn nhất không gì bằng. Vì chúng ăn trộm đồ ăn thức uống của người. Ở đây tuy đức Phật dạy cho các Tỳ-kheo xuất gia, nhưng giới này thuộc Tánh giới dành cho cả xuất gia và tại gia, nên những người nam nữ tại gia cũng không được phạm vào, nếu ai đã thọ trì năm pháp. Tại sao phạm đại vọng ngữ mà ở đây đức Phật gọi là giặc trộm? Vì như chúng ta biết, khi chúng ta mở miệng ra để nói những điều đó thì đương nhiên người nói luôn có mục đích, ngoại trừ những kẻ điên cuồng loạn tâm, thì hầu hết người nói ra việc đó đều muốn mang về cho mình một mối lợi lớn từ người nghe, có tín tâm đối với tam bảo. Đây là một cách lừa đảo có hiệu quả nhất, mà chính người nghe khó đủ trình độ trí tuệ để phát hiện, vì chúng đem bậc Thánh ra để đánh động lòng tin của người nghe, và như vậy là chính họ đã lừa đảo chính họ mà họ không biết. Đây quả thật là một việc làm buôn thần bán thánh để nuôi dưỡng cái ngã vô minh.

- Thật ra trong giới đại vọng ngữ này, chỉ ngoại trừ những ai vô liêm sỉ, không hiểu biết nhân quả mới phạm vào đại vọng ngữa, chứ thông thường thì chúng ta dễ mắt phải tiểu vọng ngữ trong cuộc sống. Do đó chúng ta là những người nam nữ Phật tử tại gia đã quy y tam bảo, thọ trì năm pháp này thì dứt khoát phải lánh xa chúng. Cho dù việc nói dối đó mang lợi lại cho chính chúng ta hay người khác đi nữa, thì việc làm đó cũng mang một hậu ý xấu là lừa đảo lường gạt kẻ khác, chúng mang cái hại đến cho họ, thì chúng ta không nên làm. Vì như trên chúng tôi đã nói, một việc làm của chúng ta, nó tác động hổ tương liên quan tới người vật khác chung quanh, gần cũng như xa qua liên hệ trực tiếp và gián tiếp.

- Sự tác hại liên đới hỗ tương lẫn nhau, nó cũng giống như ba giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa lời nói hư dối thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ tư trong năm học xứ trên.

5. Uống các loại rượu hay xa lánh uống các loại rượu:

- Đây là pháp thứ năm, còn gọi là pháp uống các loại rượi nơi phóng dật hay tránh xa uống các loại rượư nơi phóng dật. Ở đây, Bản thân của rượu vốn không tội ác, vì vậy giới uống rượu trong năm giới nó thuộc về Giá giới. Nhưng vì sau khi uống rượu vào, tất cả chúng ta không ai có thể làm chủ được chính mình, nên có khả năng tạo thành tội ác lớn. Do đó đức Phật căn cứ vào những hiện tượng và những hậu quả đã xảy ra do chất men rượu làm cho hệ thống thần kinh hưng phấn, mật to xung động, làm mờ mắt, không còn tự mình khống chế lấy mình được, có thể mắng người, đánh người, giết người, hiếp dâm, phóng hoả, làm mất anh ninh trật tự chòm xóm láng giềng và, bất cứ hành động nào cũng có thể làm được hết, mà Ngài đã chế giới uống rượu.

- Cũng như bốn giới trên, giới uống các loại rượu cũng phải hội đủ ba điều kiện sau đây mới thành tội khả hối:

1/ Là rượu.

2/ Không vì bệnh nặng.

3/ Uống vào khỏi cổ.

- Đó là ba điều kiện đủ để hoàn thành tội danh của giới uống các loại rượu khả hối này. Cho dù tội này không phải là Tánh tội bất khả hối mà là giá tội khả hối, nhưng vì tính liên đới sau khi hoàn thành tội danh thì theo sau đó những tội khác xuất hiện như cướp của, giết người, cưỡng dâm, và tất cả những tội khác có thể xảy ra, mà bản thân người đó không tự chủ được. Do đó việc tạo ra oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi. Dưới đây, chúng tôi sẽ trích dẫn hai mẫu chuyện về việc uống rượu say, và đưa đến việc phạm những trọng tội khác:

- “Vào thời kỳ đức Phật Ca-diếp-ba xa xưa, có một người thọ trì năm pháp, luôn luôn giữ giới thanh tịnh. Một hôm, từ bên ngoài trở về nhà, vì quá khát nước, nên thấy trên bàn có một chén rượu màu trong như nước, vội vàng uống một hơi vào bụng. Nào ngờ sau đó rượu ngấm, tính men rượu kích thích phát tác, khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà hàng xóm chạy vào nhà, ông ta bèn bắt trộm làm thịt, vợ người hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau việc này, bị bắt đến công đường, ông ta chối cãi không nhận tội. Chỉ vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta liên tục phạm đủ năm pháp cấm giới. Tội ác của rượu rất lớn như vậy.”

- “Vào thời đức Phật còn tại thế, có Tôn giả Sa-già-đà , thần lực của ngài có thể hàng phục được độc long. Sau khi khất thực ngài uống rượu do Phạm chí cúng dường. Uống xong ngài đi về bị say ói mửa, té ngã dọc đường. Đức Phật nói với A-nan: ‘Sa-già-đà này là người si, trước kia có thể hàng phục được độc long lớn, bây giờ, thì không thể hàng phục được con rồng nhỏ!’”

- Qua hai mẫu chuyện này cho chúng ta thấy, cái hại của việc uống rượu là như thế nào rồi. Chúng làm mờ đi trí não của con người, không còn biết gì nữa một khi đã say, và cũng vì cái nhân gây ra tai hại đáng sợ ngay trong hiện tại, và trong tương lai sau khi chết sẽ đoạ vào ba đường ác. Theo Tứ phần luật thì người uống rượu có mười điều mất mát:

1- Nhan sắc xấu xí.

2- Kém sức khỏe.

3- Con mắt không sáng.

4- Hiện tướng hung dữ.

5- Phá hỏng sự sống của gia nghiệp.

6- Đưa đến bệnh hoạn.

7- Thích đấu tranh kiện tụng.

8- Không ai khen, tiếng xấu truyền khắp.

9- Trí tuệ giảm thiểu.

10- Thân hoại mạng chung đọa vào ba đường ác.

- Đó là mười điều mất mát của chúng ta khi uống rượu say ngay trong hiện tại. Đó là cái hậu quả không thể tránh được của người uống rượu: nhân cách không còn, trí tuệ biến mất, tác hại đến sức khẻo, tạo ra các thứ tội mà đáng ra nếu chúng ta không uống rượu vào thì sẽ không xảy ra! Từ đây tác động hỗ tương kéo rộng ra chung quanh mà gần nhất là những người thân trong gia đình và rộng hơn là xã hội.

- Cũng giống như bốn giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa uống các loại rượu thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ năm trong năm học xứ trên.

Tóm lại, qua năm pháp trên: Thứ nhất cho chúng ta một cái nhìn về nhân quả, theo đó nếu người thiện nam kẻ tín nữ nào phạm vào, có nghĩa là chúng ta giết hại sinh mạng con người cho đến uống các thứ rượu, thì hiện tại sẽ bị khổ đau vì tù tội, và oán đối trả vay theo sau, khiến cuộc sống trở nên bất an, xã hội trở thành bất ổn, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạ vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh oán đối theo mãi. Còn nếu lánh xa giết hại sinh mạng người cho đến xa lìa uống các thứ rượu, thì chắc chắn hiện tại sẽ hạnh phúc tự do, cuộc sống trở nên an lạc, xã hội trở thành cực lạc, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi trời. Đó là một thứ nhân quả tất yếu không thể không xảy ra. Thứ hai ngoài giới thứ nhất sát hại sinh mạng ra, bốn giới sau giới nào cũng có khả năng sau khi hoàn thành việc vi phạm chính giới có thể đưa đến giết người, và những tội danh nặng nhẹ khác nhau có sau đó. Thứ ba trong năm giới, giới nào khi hoàn thành nghiệp nhân của nó cũng bắt đầu từ tâm ý tham lam, sân hận, ngu si phát động, và kéo theo đó thân và khẩu hành động theo, và tuỳ thuộc vào kết quả đã thực hiện xong, tội danh bắt dầu hiện hữu, sau đó sẽ bắt đầu nhận lãnh nghiệp quả ngay trong hiện tại, hay trong tương lai, thì chúng còn tuỳ thuộc vào duyên đủ hay chưa đủ của chúng. Thứ tư từ những hiện tượng duyên đủ trên đủ để phát động những liên hệ duyên khởi tiếp sau đó, và cứ như thế trái đất vẫn quay, mặt trời vẫn chiếu sáng, các hành tinh vẫn hoạt động bình thường, theo sự sinh diệt phải có của chính chúng. Con người cũng không vượt khỏi qui luật này, và như vậy họ cũng phải sinh diệt theo qui luật thành, trụ, hoại, không, trong chu trình biến dịch sinh tử. Trong chu trình biến dịch sinh tử này, chúng luôn mang theo những chất liệu đủ đề hoàn thành biến dịch của sinh và tử, đó chính là những nghiệp nhân của nghiệp quả trước đó hình thành những chuỗi liên hệ khác trong chính nó, và như vậy khổ đau hay hạnh phúc cũng tuỳ thuộc vào những chất liệu nghiệp nhân mà chúng ta đã tạo ra trong quan hệ y báo và chánh báo.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post




Pháp Lục hoà là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nên tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn trong hoà hợp hoà kinh hạnh phúc và an lạc. Vì sáu pháp hoà kính này có năng lực hoá giải tất cả mọi xung giữa cá nhân và cá nhân, cộng động tập thể này và cộng đồng tập thể khác trong cuộc sống chung đụng với nhau từ vật chất đến tinh thần, nếu mất hoà khí, bất hoà với nhau thì cuộc sống của mọi người trở nên địa ngục. Sự bất hoà là đầu mối đưa đến xung đột đổ vỡ trong cuộc sống, là ung nhọt độc cần phải được giải phẩu cắt bỏ đi, nếu không muốn đưa đến chỗ đổ vỗ chia lìa tan rã. Trong một tập thể cộng đồng Tăng lữ nếu muốn duy trì cuộc sống vô sự thì trước hết phải vô hiệu hoá bản ngã cá nhân qua việc tự kính trọng mình và kính trọng mọi người chung quanh và, phát triển lòng từ đối với chính mình cùng mọi người. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nên an lạc và hạnh phúc được. Đó là chúng tôi đề cập đến ý nghĩa pháp Lục Hoà đối các hàng Thinh Văn cầu Bồ-đề, khi tu tập cần phải ái kính lẫn nhau, chứ chưa đề cập đến Lục hoà theo ý nghĩa của Đại thừa dành riêng cho các hàng Bồ-tát đối với chúng sanh trong việc lợi tha không điều kiện. Sáu pháp hoà kính này tuy các kinh luân nhiều nơi dùng từ khác nhau hay vị trí sắp xếp cũng không giống nhau; nhưng trong ý nghĩa thì đồng. Ở đây chúng tôi xin đưa ra sáu pháp Lục Hoà thông thường đối với mọi người đã từng đọc qua, đã từng học rồi cho chúng ta dễ tiếp nhận hơn theo Tổ Đình Sự Uyển thì sáu pháp Lục Hoà là:

1. Thân hoà cộng trụ, là trên phương diện sinh hoạt hằng ngày trong một tổ chức, chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau.

2. Khẩu hoà vô tránh, đứng trên phương diện giao tiếp chỉ bảo qua ngôn ngữ lời nói lẫn nhau, luôn luôn thể hiện tinh thần khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện, dứt trừ làm ác.

3. Ý hoà đồng sự, là đứng trên phương diện tư tưởng, lúc nào cũng tôn trọng và ái kính ý kiến người khác, nếu tư tưởng ý kiến đó là đúng, còn nếu không thì hãy cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui vẻ chấp nhận.

4. Giới hoà đồng tu, là chúng ta cùng sống chung trong một tập thể, lúc nào chúng ta cũng nên tuân thủ cùng nhau tu tập theo giới luật chung đã được đặt ra.

5. Kiến hoà đồng giải, là kiến giải có được về chân lý, hay lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi người, cùng nhau tu tập.

6. Lợi hoà đồng quân, là tất cả mọi thứ của cải vật chất có được từ sự hỷ cúng của các thí chủ, được chia đều cùng nhau một cách bình đẳng một cách hợp pháp, có nghĩa là bình đẳng trong đồng đẳng.

Đó là sáu pháp hoà kính thông dụng mà chúng ta thường nghe thấy hay thọ trì, nhưng nếu chúng ta cũng qua sáu pháp hoà kính này mà theo các văn bản của các kinh luận khác thì chúng ta thấy có sự sai khác về cách dụng ngữ cũng như cách sắp thứ tự của sáu pháp trong mỗi bản văn mỗi khác nhau, có lẽ đây là do sự san định sau này trong những kỳ kiết tập kinh điển qua các bộ phái phát triển sau này để cho phù hợp với quan điểm của họ mà thôi. Rất mừng là tuy khác nhau trên mặt hình thức và vị trí sắp xếp, nhưng trong các văn bản khác nhau này về nội dung thì không thay đổi; nếu chúng có thay đổi đi chăng nữa thì nội dung đó cũng chỉ khác nhau tuỳ thuộc vào các thuộc tính hành trình theo từng căn cơ của hành giả mà thôi.

Vì vậy cho nên ở đây chúng tôi sẽ trình bày một số ít văn bản trong nhiều văn bản đại diện cho các trào lưu phát triển từ nguyên thỉ cho đền các bộ phái sau nay và, trong hiện tại chỉ còn đại diện hai bộ phái duy nhất là Tiểu thừa và Đại thừa qua kinh luận sau đây.

Sáu pháp hoà kính đầu tiên được đức Đạo sư nói ra qua tiêu đề là Lục trọng pháp trong kinh Trung A-hàm 22, được đức Đạo sư đem ra day cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na nhân hai người đến để trình lên chỗ thấy nghe của Sa-di Châu-na về trường hợp Thầy trò Ni-kiền Thân Tử, sau khi ông ta mất đi và những cảnh tượng đau lòng giữa các đệ tử của ông xảy ra. Sự phân hoá phát xuất từ những bản ngã cá nhân được bừng nổ từ sự ần nhẫn dưới sự bao trùm khép kin của sư phụ họ, những bản ngã cá thể được bùng vỡ ra từ những ức chế tâm lý đã từng được họ cưu mang thể hiện qua những hành động chống báng nhau, không ai nghe ai! Ai cũng cho mình là nhất, sự ái kính lẫn nhau không còn nữa. Họ tranh đấu, kiện tụng, cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng, “Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói tề chỉnh, còn ngươi không tề chỉnh. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, ngươi nói sau; điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta hơn, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni-kiền Thân Tử, thấy những cảnh tượng như vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử này. Vì những điều các đệ tử của Thầy họ nói ra đều là ác pháp luật, không phải là pháp giải thoát, không đưa đến Chánh giác, cũng không phải là lời dạy của Đấng Thiện Thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc Thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ Sa-di Châu-na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá-di, rồi qua phía bắc thôn Xá-di, đến rừng Thi-nhiếp-hòa. Sa-di Châu-na đến chỗ Tôn giả A-nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi ngồi qua một bên đem việc này trình lên Đức Đạo sư.

Đức Đạo sư nhân cơ hội này dạy cho các học trò của Người về bảy phương pháp đình chỉ mọi sự tranh cãi và pháp lục hoà, là vì Ngài muốn học trò của Ngài luôn luôn phải sống trong vô sự thể hiện qua sự ái kinh lẫn nhau trong cuộc sống nên Ngài đã nhân việc mất hoà khí giữa các đệ tử của Ni-kiền Thân Tử chia rẽ và phá hoại nhau sau khi ông qua đời. Đức Đạo dạy về sáu pháp hoà kính như trong kinh Trung A-hàm 52, kinh 196 Châu-na (T1n26, tr. 755b21) như sau:

“Này A-nan! Nay ta nói cho ngươi sáu pháp ủy lao, hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ.”

Tôn giả A Nan bạch rằng:

“Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe.”

Phật nói:

“Thế nào là sáu? Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, cũng vậy.

“Có lợi lộc nào đúng pháp mà nhận được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh, pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được Thánh khen ngợi, đầy đủ khéo thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Nếu có kiến giải của Thánh có sự xuất yếu, được thông suốt bằng tuệ kiến, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

“Này A-nan, Ta vừa nói sáu pháp ủy lao, vì vậy mà Ta giảng giải. Này A-nan, nếu các ngươi đối với sáu gốc rễ của tránh sự mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp đình chỉ tránh sự, khi trong Tăng chúng khởi lên tránh sự, thì chấm dứt bằng luật đình chỉ tránh sự như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lao ấy, thì này A-nan, như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, sống an lạc như lúc Ta còn tại thế.”

Qua đoạn kinh mà đức Đạo sư đã dạy cho Tôn giả A-nan, về mặt hình thức dụng ngữ có những sai hác và, cách sắp xếp vị trí cũng không có sự đồng bộ nhất trí như Sáu pháp hoà kính trong Tổ Đình Sự Uyển, nhưng về mặt nội dung ý nghĩa thì không khác. Tuy những dụng ngữ trong mỗi văn bản có sự khác nhau, nhưng cuối cùng cũng đưa đến sự hoà kinh tôn trọng lẫn nhau trong một nếp sống tập thể không thiếu lòng từ cho việc lợi tha về mọi mặt trong cuộc sống: Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho mọi người tương thân với nhau, khiến cho mọi người tương kính với nhau, khiến cho mọi người cùng tương trợ với nhau qua cuộc sống, khiến cho mọi sự tu tập tinh tấn hơn, khiến cho cuộc sống nội bộ cùng chung một tập có sự đoàn kết thân ái hơn, cũng là nhân đưa đến sự tác thành cuộc sống Phạm hạnh của một Sa-môn, đưa đến nhất tâm và tinh cần thật sự cho việc hành giả chứng đắc Niết-bàn. Qua sáu pháp hoà kinh mỗi một pháp chúng tự có giá trị cho tự thân chúng tuỳ theo từng thuộc tính một, nếu hành giả theo đó mà thực hành đúng nhu lời đức Đạo sư đã dạy thì việc chứng đắc Niết-bàn trước sau gì cũng sẽ đạt được.

Hay cũng theo Kinh Tăng Nhất A-hàm 29 (Đ. 2, Tăng Nhất A-hàm 29, Lục trọng pháp,tr. 0708c) thì đức Đạo sư dạy cho cá Tỳ-kheo: “Các ngươi hãy suy niệm sáu trọng pháp, kính trọng, tôn trọng, và ghi nhớ mãi ở trong tâm không cho quên mất. Sao gọi là sáu? Ở đây, Tỳ-kheo thân hành niệm từ, như soi gương thấy hình mình, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

“Lại nữa, khẩu hành niệm từ, ý hành niệm từ, đáng kính, đáng quý, không để quên mất.

“Lại nữa, được các thứ lợi lộc đúng pháp thì nên chia cho các phạm hạnh cùng hưởng, không tưởng tiếc rẻ; pháp này đáng kính, đáng quí, không để quên mất.

“Lại nữa, có các giới cấm không hủ, không bại, cực kỳ hoàn hảo, không sứt, không thủng, được bậc trí quí trọng, lại muốn đem giới này được phân bố cho người khác cũng đồng một vị; pháp này đáng kính, đáng quí không để quên mất.

“Lại nữa, chánh kiến của Hiền Thánh dẫn đến xuất yếu; có kiến giải như vậy, và muốn các vị phạm hạnh đồng tu cùng đồng pháp này, cũng đáng kính, đáng quí, không để quên mất.

“Này Tỳ-kheo, đó gọi là có sáu trọng pháp này, đáng kính, đáng quí, không để quên mất. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường xuyên tu tập các hành vi của thân, miệng, ý; nếu được các thứ lợi dưỡng, cũng nên nghĩ phân đều cho nhau, chớ khởi tưởng tham.” Kinh này tương đồng với Tăng Chi Bộ kinh của Pāli qua sáu pháp Ủy lạo Pāli, (M 104 Sāmagāmasutta (R. iii. 250): cha sārāṇīya-dhammā.)

Giữa hai bản kinh Trung A-hàm và Tăng Nhất A-hàm về vị trí theo thứ tự có sự thấng nhất, tuy những dụng ngữ không giống nhau, nhưng về nội dung thì không khác. Sự khác nhau trong dụng ngữ để khế hợp với từng căn cơ chủng loại loại của trình độ người nghe mà đức Đạo sư phương tiện giảng thuyết. Theo kinh Trung A-hàm thì trước khi Ngài dạy cho Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na về Sáu pháp hòa kinh thì, ngải đã nhân việc khởi lên tranh cãi nhau, bất hòa nhau trong cuộc sống tập thể của các đệ tử ngoại đạo Ni-kiền Thân Tử về bảy phương pháp để đưa đến việc chấm dứt mọi việc tranh cãi bất hòa nhau trong cuộc sống, đó chí là Bảy pháp diệt tránh và, sau đó mới dạy về Sáu pháp hòa kính. Qua thời gian của hai bản kinh được đức Đạo sư nói ra là khác nhau, nhưng nội dung ý nghĩa thì đồng nhau trên cương vị đưa hành giả đến chỗ thanh tịnh hóa ba nghiệp thân-khẩu-ý. Đây chính là một phương pháp vừa tự độ và cũng vừa độ tha trong một cộng đồng sống chung tập thể với nhau, qua việc tự hoàn thiện cá nhân mình trong việc thanh tịnh hóa ba nghiệp của mỗi người và qua đó cảm hóa được nhau qua sự giúp đỡ lẫn nhau trong việc tấn tu đạo nghiệp cũng qua ba nghiệp, nhưng lệ thuộc vào những hoàn cảnh sống chung quanh với bản thân cá nhân của mỗi một cá thể được cụ thể hóa qua việc hòa đồng cùng đem lại lợi ích cho nhau về vật chất cũng như tinh thần qua giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và lợi hòa đồng quân. Đó chính là những yếu tố cần thiết trong một tập thể sống nếu muốn trở nên an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại.

Theo A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15 gọi Sáu pháp hòa kinh này là Sáu pháp khả hỷ và được Tôn giả Xá-lợi-phất trình bày như sau: “Sao gọi là sáu? là nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng Phạm hạnh, khởi nghiệp thân từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ nhất. Do pháp này nên có thể phát ra đáng yêu (khả ái), có thể phát ra sự tôn trọng, có thể phát ra vừa ý (khả ý), và cũng có khả năng dẫn đạo khả ái, tôn trọng, khả ý, vui ý, nhiếp thọ mọi hoan hỷ không trái không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng phạm hạnh, khởi nghiệp khẩu từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ hai. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào ở chỗ Đại sư cùng người trí đồng phạm hạnh, khởi nghiệp ý từ bi thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ ba. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nhờ pháp thu hoạch được những lợi dưỡng như pháp, thì những thức ăn có được từ những bát thấp nhất cho đến những bát trung; những lợi dưỡng này cùng những người trí đồng phạm hạnh cùng nhau thọ dụng không được phân ra cất dấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ tư. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đã thọ trì giới có được, không khuyết, không rỉ, không tạp, không nhơ, ứng cúng không chấp thiện, cứu cánh thiện, nhận lấy những lời xưng tán không hùy báng những người trí, đối với những giới như vậy cùng người trí đồng phạm hạnh, cùng nhau thọ trì không gì che dấu, thì đó gọi là pháp khả hỷ thứ năm. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, nói rộng cho đến không ngăn đi về một hướng.

Lại nữa, có Tỳ-kheo nào, những sở kiến có được, về đạo xuất ly của các bậc thánh mà khéo thông đạt; hoặc khởi công thực hành chúng có thể đạt đến chỗ hết khỏ. Đối với những sở kiến như vậy cùng với các bậc trí đồng phạm hạnh, cùng nhau tu tập không che dấu những sở kiến của mình thì, đó gọi là pháp khả hỷ thứ sáu. Do pháp này nên có thể phát khởi khả ái, có thể phát khởi tôn trọng, có thể pháp khởi khả ý và, có khả năng dẫn đạo khả ái, tôn trọng, khả ý cùng nhiếp thọp mọi hoan hỷ không trái không ngăn hành giả đi về một hướng.” Qua lời trình bày của Tôn giả Xá-lợi-phất trong A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc luận 15; đây là những gì chính Tôn giả đã từng nghe đức Đạo sư dạy và được Ngài trình bày lại nơi đây, về ý nghĩa không khác với Sáu pháp hòa kính do Đức Đạo sư dạy, tuy trên mặt dụng ngữ là có khác về cách sử dụng từ, nhưng về nội dung thì giống nhau về việc tu tập ba nghiệp để trở nên thanh tịnh từ vật chất đến tinh thần được kết hợp một cách nhuần nhuyễn trong việc thể hiện qua cuộc sống tập thể Tăng đoàn, tạo nên an lạc hạnh phúc trong đoàn kết thân thương hòa hợp đưa đến nếp sống vô sự an lạc trong giải thoát cuối cùng. Đó là những văn bản chúng tôi trích ra từ kinh điển đại diện cho quan điểm của Tiểu thừa về sáu pháp hòa kính cho thấy có sự đồng nhất trên theo thứ tự của Sáu pháp này vê 2 hình thứ kể cả nội dung, tuy có việc sai khác trong cách dụng ngữ của mỗi bản văn.; nhưng điều này không ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng. Dưới dây chúng tôi sẽ đưa ra Sáu pháp hòa kính theo kinh điển của các nhà Đại thừa trong nội dung tư tưởng và về cả cách thức sắp xếp cùng cách sử dụng dụng ngữ nữa.

Theo Đại Thừa Nghĩa Chương 12 thì ý nghĩa của Lục hòa kính đồng đưa đến an lạc, không tạo nên phiền não, khởi lên tạo tác không trái với an lạc nên gọi là hòa; vì lúc hành giả thực hành hòa hợp đoàn kết trong cuộc sống luôn luôn cần sự hiện hữu tác động của tình cảm lên nếp sinh hoạt của chúng ta mới mong mang lại tình thân quý trọng lẫn nhau. Sự bền vững của hòa hợp luôn phải được thể hiện nơi lòng chí kính, nếu trong giao thiệp mà không có sự tôn trọng chí kính lẫn nhau thì sự kết hợp đó sẽ đưa đến sự tan vỡ. Cho nên sự thành công để đưa đên an lạc phải có hòa và kính đi đội với nhau. Vì vậy cho nên được gọi là Sáu pháp hòa kính. Theo Đại thừ Nghĩa chương thì: Một. Thân nghiệp đồng, có hai: một cùng xa lìa tội lỗi, có nghĩa là hành giả tu tập đồng xa lìa sát, đạo, tà dâm, …, hai đồng tạo việc thiện, nghĩa là thực hành tất cả những việc có liên quan đế thiện nghiệp, như lễ bái … Hai, khẩu nghiệp đồng, cũng có hai: một cùng đồng xa lìa tội lỗi, có nghĩa là tất cả đều xa lìa nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt. Hai, cùng đồng làm việc thiện, nghĩa là cùng làm mọi công việc thiện như tán tụng, khuyến thiện … Ba ý nghiệp đồng, cũng có hai loại: Một, cùng đồng lìa tội lỗi, có nghĩa là cùng nhau lìa khỏi tất cả mọi ý nghĩ về nghiệp phiền não ngay trong ý nghĩ. Hai cùng nhau tạo việc thiện qua ý nghĩ, cùng nhau tu tín, tấn, niệm, định, tuệ tất cả mọi pháp thiện. Bốn, đồng giới, cũng có hai: Một, cùng đồng người thô giới như ngũ giới, bát giới, mười giới … Hai, cùng đồng trì giới mà mình đã thọ. Ở đây phân ra làm ba loại giới: Một nhiếp luật nghi gới, hai, Nhiếp thiện pháp giới, ba, Nhiếp chúng sanh giới. Năm, Đồng bố thí, cũng có hai: Một, nội thí hòa đồng gồm những vât nhà mình, tự thân dùng để phụng cấp cho việc tôn kính. Hai, ngoại thí hòa đồng, những tư cụ có được ngoài nhà ra. thí này cũng được phân ra là ba loại: Một, Tài thí hòa đồng, hai, pháp thí hòa đồng, ba, vô úy thí hòa đồng. Sáu, Đồng kiến, là chỉ co kiến giải có được, củng có hai loại: một, trong thế đế kiến giải đồng nhất không khác. hai, trong chân đến có kiến giải đồng nhất không khác. sựa sai khác ở đây chỉ có trên măt sắp xếp theo thứ tự thì có khác với ba pháp hòa kính sau và, trên cách dụng ngữ cũng có khác đối với kinh điển Tiểu thừa; tuy nhiên về nội dung ý nghĩa thì không khác, chỉ giải thích sâu rộng thêm về mặt ý nghĩa thôi.

Riêng theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn phần cuối của quyển hạ thì về mặt hình thức ba pháp dưới đổi lên trên và ba pháp trên đổi xuống dưới và, trong các sử dụng dụng ngữ cũng theo đó mà có sự sai khác; nhưng trên mặt ý nghĩa thì đồng nhau. Ở đây chỉ có pháp thứ ba Đồng hành hòa kính, không những khác nhau về dụng ngữ mà còn khác nhau về hiện tượng. Trong các bản kinh văn khác đều lấy quả để nêu lên ý nghĩa của háp hòa kính này, nhưng ở đây lấy nhận đê làm tiền đề cho pháp này. tuy nhiên nếu đi sâu vào hơn nữa thì giữa nhân và quả không khác nhau trên nghĩa cứu cánh, do đó chúng cũng không ảnh hưởng cho lắm trong việc tu tập cho hành giả nếu chúng ta thực hành đúng đường. Theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn thì Sáu pháp hòa kính này theo thứ tự như sau:

Một, Đồng giới hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp biết rằng tội bất khả đắc, vì muốn an vị chúng sanh đối với lý thật tướng nên dùng Giới làm phương tiện thiện xảo đồng với tất cả qua việc thọ trì các giới phẩm mà mình đã thọ, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả chúng sanh cùng đồng giới thiện này, không đoạn không thường, đời vị lai ắt được quả lớn Bồ-đề, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng giới là hòa kính.

Hai, Đồng kiến hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp, đối các pháp không được không biết không thấy, vì muốn an vị chúng sanh, đối với các pháp chánh kiến làm phương tiện thiện xảo hòa đồng với tất cả. Mọi thứ tri kiến không trái nghịch và, cũng nên biết rằng chúng sanh nhân tri kiến nầy mà phân biệt được chánh kiến tà kiến; tăng tiến giải mở, tất được chủng trí viên minh. vì kinh tri kiến như Phật, cho nên nói đồng kiến là hòa kính.

Ba, Đồng hành hòa kính, Bồ-tát thông đạt thật tướng các pháp, vô niệm vô hành, vì muốn an vị chúng sanh đối với thật tướng chánh hành nên dùng hành làm phương tiện thiện xảo đồng với tất cả qua việc tu tập các loại hành, không có nghịch trái và, cũng biết rằng tất cả chúng sanh cùng đồng các hành này, không có trái nghịch, cũng nên biết rằng chúng sanh đồng các hành này, dần dần tích tụ công đức, tất cả sẽ thành phật đạo, Bồ-tát vì kính giới như Phật cho nên nói đồng hành là hòa kính.

Bốn, Thân từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào vô duyên đại từ bình đẳng, nhờ tu thân mình, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, hiện các oai nghi, cùng vui với tất cả, cho nên thân cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, đời vị lai ắt được thân kim cương. vì kinh thân như Phật, cho nên nói thân từ là hòa kính.

Năm, Khẩu từ hòa kính, Bồ-tát trụ vào vô duyên đại từ bình đẳng, nhờ tu khẩu mình, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, phát ra khắp tất cả mọi thứ âm thinh ngôn ngữ, cùng vui với tất cả, cho nên miệng cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, đời vị lai ắt được khẩu nghiệp vô thượng. vì kính khẩu như Phật, cho nên nói khẩu từ là hòa kính.

Sáu, Ý từ hòa kính, Bồ-tát tâm thường trụ vào vô duyên từ tam-muội, nhờ tu tập ý, căn lực hiền từ, có khả năng không khởi diệt định, hiện các tâm ý, cùng vui với chúng sanh, cho nên ý cùng với chín đường hòa đồng; cũng nên biết rằng trước được vui chúng sanh, tất cả có tánh Phật, ý tàng Như Lai, đời vị lai ắt được tâm như tâm Phật, vì kính ý như Phật cho nên nói ý từ là hòa kính. Qua Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn ngoài thứ tự Sáu pháp hòa kính ra, đặc biệt Sáu pháp này dành cho các hàng Bồ-tát khi hành Bồ-tát hạnh của mình lấy Sáu pháp này với mục đích là để an vi chúng sanh, tức là sáu pháp này thể hiện nơi chính bản thân các Ngài để làm gương cho mọi người tin theo qua thân giáo cùng chính cuộc sống của quý Ngài qua hòa kính trong cùng một cộng đồng vô duyên từ là yếu tố quan trong đưa đến thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý và, khiến mọi chúng sanh cũng đồng tội bất khả đắc, các pháp không được, không biết, không thấy, vô niệm, vô hành. Đây chính là pháp môn bất nhị của Sáu pháp hòa kinh dành cho các hàng Bồ-tát. Do vì thuộc tính của đối tượng nên sáu pháp hòa kính theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn ý nghĩa chúng sâu xa và vi diệu hơn nhiều so với Sáu pháp hòa kính danh cho các hang tại gia và Tiểu thừa; nhưng ý nghĩa sáu phap hòa kinh cứu cánh của chúng vẫn đưa hành giả đến an vui giải thoát.

Tóm lại, về ý nghĩa của pháp Lục hòa như phần đầu chúng tôi đã trình bày và, theo đó chúng tôi đưa ra những bản kinh văn thuộc hai hệ Tiểu và Đại Thừa để chúng ta thấy rõ được những chỗ đồng dị của chúng; nhưng đó chỉ là những đồng dị tùy thuộc vào thuộc tính của từng căn cơ các loải hữu tình mà đức Đạo sư đã phương tiện dạy cho chúng ta về cả hai phương diện khế cơ và khế lý, nên dù có những khác nhau trong dụng ngữ hay kết hợp theo thứ lớp không đồng bộ thì việc này cũng nằm trong việc tùy duyên của Ngài lúc ra hóa đạo mà thôi. Mục đích là giảng dạy cho các hàng đệ tử của Ngài trong nếp sống cộng đồng, sống thế nào để đem lại an vui phúc phúc và những điều kiện cần phải nổ lực thực hành những pháp ấy cùng, sống thế nào để đưa đến oán đối tan rã, đưa đến đau khổ lẫn nhau. Một tập thể Tăng lữ nếu muốn duy trì cuộc sống vô sự trong một cộng đồng thì trước hết phải vô hiệu hoá bản ngã cá nhân của mỗi người qua việc tự kính trọng mình và kính trọng mọi người chung quanh và, phát triển lòng từ đối với chính mình cùng mọi người. Có như vậy mọi sự ái kính mới được phát triển và cuộc sống tập thể mới mong trở nên an lạc và hạnh phúc được. Qua đó Pháp Lục hòa được đức Đạo sư chỉ dạy cặn kẽ cho các đệ tử của Ngài, từ tại gia cũng như xuất gia qua việc thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý là chính của mỗi cá nhân và những giải quyết mọi ràng buộc trong sinh hoat hằng ngày trong từng tập thể qua việc thể hiện lòng từ là chính trong việc hướng dẫn dìu dắt nhau nhau tiến về đạo giải thoát.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post


Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình, trong muôn nghìn pháp môn mà đức Đạo sư đã để lại. Kế đến là chúng ta phải hạ thủ quyết tâm thực hành pháp môn mà mình đã chọn và, điều kiện cần thiết và quan trong nhất trong khi tu tập là siêng năng tinh tấn, nếu thiếu đi tinh tấn siêng năng thì dù cho phương pháp tu có tốt và dễ dàng đi chăng nữa cũng trở thành vô ích, do đó vấn đề siêng năng tinh tấn rất cần thiết cho hành giả trên bước đường tu tập.

Ở đây chúng tôi xin trình bày một phương pháp tu cực kỳ đơn giản và, bất cứ ai trong chúng ta dù lớn, nhỏ, già, bé cũng có thể tu được hết; tu tập bất cứ nơi đâu ở tại nhà, tại chùa, nơi chợ búa, nơi trường học, nơi văn phòng làm việc, ở ngoài đường, nơi công sở, nơi ruộng đồng, nơi trường học, khi ăn, khi đi ngủ, khi đi vệ sinh, khi chạy, khi nói, khi cười, khi la, khi khóc và trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm và ngồi, nói chung là bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ nào, trong bất cứ công việc gì chúng ta bắt tay vào làm và, khi mà hơi thở ra vào của chúng ta vẫn hiện hữu thì chúng ta cũng có thể tu tập được hết ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của chúng ta, đó là pháp tu Tứ chánh cần. Phương pháp tu này không cần đến trí tuệ nhiều lắm, mà chỉ cần siệng năng tinh tấn tu tập trong hiện quán tĩnh thức là hành giả thành công trong việc loại trừ được ba nghiệp dữ của thân, miệng, ý và, thanh tịnh hoá được ba nghiệp thân, miệng, ý trong việc vô hiệu hoá dần ba độc tham, sân, si trên con đường tìm cầu giải thoát.

Tứ chánh cần, Sanskrit gọi là Catvāri prahāṇāni; Pāli gọi là Cattāri sammappadhānāni. Có chỗ gọi là Tứ chánh đoạn, Tứ ý đoạn, Tứ ý đoan, Tứ chánh thắng hay Tứ đoạn. Chữ cần và chữ đoạn ở đây Theo Pāli có nghĩa là pahāna-padhāna (tinh cần để đoạn trừ) tức là dùng bốn pháp này trong việc siêng năng tinh tấn (cần) để có thể đoạn trừ (đọan) ác cùng mọi sự giải đãi biếng nhác của chúng ta trong việc hành thiện.

Tứ Chánh Cần là hành phẩm thứ hai trong bảy hành phẩm trợ đạo của ba mươi bảy phẩm đạo, là bốn cách siêng năng tinh cần trong nổ lực hằng ngày qua hiện quán tĩnh thức của hành giả để ngăn ngừa các việc ác tâm chưa phát sinh thì không cho chúng phát sinh và, việc ác đã phát sinh ra trong ý nghĩ hay việc ác đã phát sinh ra trong ý nghĩ rồi được thể hiện ra ngoài lời nói hoặc trong hành động thì, phải nổ lực sịêng năng hiện quán tĩnh thức đoạn trừ không cho tái phạm những việc ác lỡ đã phát sinh bằng vào ý nghĩ hay hành động tạo tác của thân hay miệng; cùng lúc hành giả hiện quán tĩnh thức thực hành các việc thiện chưa phát sinh làm cho nó phát sinh và, việc thiện đã-đang phát sinh thì phải luôn luôn nổ lực tiếp nối làm cho nó càng ngày càng thêm rộng lớn thêm trong việc tu tập theo luật tắc nhân quả qua việc chỉ ác hành thiện.

Về chỉ ác thì dùng mọi sự siêng năng tinh tấn của mỗi chúng ta vừa nổ lực đọan trừ những việc ác mà chúng ta đã lỡ làm ra, dứt khóat không bao giờ tái phạm và, nổ lức siêng năng tinh tấn trong việc ngăn ngừa những việc ác chưa phát sinh ra ngay từ trong ý nghĩ, không cho chúng phát sinh ra trong tự ý (ý hành) và ngoài hành động của thân (thân hành) của miệng (khẩu hành) làm di hại tự chúng ta và cho người khác.

Về hành thiện thì hành giả chúng ta cũng dùng siêng năng tinh tấn hiện quán tịnh thức trong việc vừa khơi dậy những việc làm thiện chưa phát sinh ra trong ý nghĩ thì khiến cho chúng phát sinh ra trong tự ý và thể hiện ra ngoài bằng những hành động của thân mình và miệng mình, đồng thời cũng dùng siêng năng tinh tấn hiện quán tĩnh thức trong việc tiếp tục tiếp nối làm cho những việc làm thiện đã-đang phát sinh tăng trưởng ngày càng nhiều hơn trong việc lợi mình lợi người. Đó là ý nghĩa của Tứ chánh cần hay Tứ chánh đoạn trong việc chỉ ác hành thiện lợi mình lợi người trong cuộc sống.

Ở đây chúng tôi xin phân biệt rõ ràng về hai chữ ác và thiện.

- Sao gọi là việc ác?

Một, việc ác là việc làm của chúng ta mang tính cách ích kỷ muốn thoã mãn và nuôi lớn ba thứ độc hại đó là lòng tham lam, tính hận thù và, sự si mê ngu muội được thể hiện ra trong ý nghĩ, lời nói và, hành động làm hại người hai vật và, chỉ biết lợi về mình mang hại lại cho kẻ khác về tinh thần lẫn vật chất, bất kể thủ đoạn nào chúng ta cũng làm.

Hai, việc ác là việc làm của chúng ta mang tính ích kỷ, muốn thoã mãn và nuôi lớn ba thứ độc hại của lòng tham lam, tính thù hận và, sự si mê ngu muội không biết phân biệt phải trái nên để cho chúng thể hiện qua ý nghĩ, lời nói và hành động tự làm hại mình và làm hại người. Đó là hai việc ác được chúng tôi trình bày theo những lời dạy của đức Đạo sư.

- Sao gọi là việc thiện (lành)?

Một, việc thiện là việc làm của chúng ta không mang tính cách ích kỷ không phải để thoã mãn và nuôi lớn ba thứ độc hại, của lòng tham lam, tính hận thù và, sự si mê ngu muội mà thể hiện lòng từ bi thương giúp mọi người, mọi vật đem lợi chánh đáng về cho mọi người. Trong việc làm này có thể có hại cho ta về mặt vật chất, nhưng trong việc làm này làm cho tinh thần chúng ta vui vẻ vì đã làm việc tốt cho mọi người, mọi vật … đó gọi là việc thiện.

Hai, việc thiện là việc làm của chúng ta không mang tính cách ích kỷ không phải để thoã mãn và nuôi lớn ba thứ độc hại, của lòng tham lam, tính hận thù và, sự si mê ngu muội mà thể hiện lòng từ bi thương giúp mọi người, mọi vật đem lợi chánh đáng về cho mọi người, và cho cả chính mình về mặt vật chất, cũng như tinh thần. Nhân việc làm này làm cho mọi người và ngay chúng ta có lợi với nhau mà còn đem lại vui vẻ cho cả hai bên … đó gọi là việc thiện.

Cả hai việc thiện được chúng tôi trình bày theo những lời dạy của đức Đạo sư.

Phương pháp tu tập pháp Tứ chánh cần này, hành giả chúng ta phải đem chúng áp dụng ngay vào trong cuộc sống của chính mọi người. Vì trong cuộc sống của chúng ta bất cứ ai cũng biết tư duy suy nghĩ và biết ý nghĩ nào đúng, ý nghĩ nào sai, ý nghĩ nào thiện, ý nghĩ nào ác chúng ta có thể phân biệt được ngay trong ý nghĩ, ngay trong hành động, ngay trong lời nói của chúng ta. Nhờ ý nghĩ luôn đi trước hành động và lời nói nên hành giả chúng ta có thể kiểm soát chúng từ trong từng ý nghĩ, ngay trong từng lời nói, ngay trong từng hành động, khi chúng ta sống một mình, khi chúng ta làm việc, khi chúng ta học hành, khi chúng ta giao tiếp với mọi người chung quanh v.v… bằng vào nổ lực tinh tấn trong hiện quán tĩnh thức. Ở đây chúng tôi xin giải thích rõ ràng về hai chữ HIỆN QUÁN một chút cho quí hành giả nắm vững. Hiện quán là hai từ của nhà Thiền chỉ cho sự quán sát, để ý, xem xét theo dõi từng ý nghĩ, từng lời nói, từng việc làm của mình khi chúng khởi lên, khi lụac căn tiếp xúc với lục trần cảnh giới bên ngoài, chúng đang xuất hiện là đúng hay là sai, là thiện hay là ác, có lợi hay là có hại. Ngoài nghĩa trên ra hiện quán ở đây còn mang ý nghĩa tinh cần tinh tấn của chánh cần nữa. Do đó sự kết hợp Tứ chánh cần với pháp Hiện quán là một yếu tố cần thiết, làm tăng thêm sự chính xác qua hiện quán của xem xét, của phát hiện đúng bộ mặt thật của thiện và, ác. Khi mà hành giả đã nhận dạng ra bộ mặt thật của chúng rồi thì, tự động automatic theo sự phát hiện của chúng ta tuỳ theo sự lựa chọn lấy bỏ lập tức chúng ta có quyết định ngay qua chỉ ác hành thiện. Như vậy nếu chúng ta luôn nổ lực siệng năng tinh tấn hiện quán tĩnh thức trong cuộc sống của chính mình qua mọi tiếp xúc, qua mọi cuộc giao tế làm ăn, qua mọi sinh hoạt bình thường hằng, qua cơ sở, trường lớp, qua chợ búa, quán xá của mỗi hành giả chúng ta trong hiện quán tĩnh thức thì, lo gì chúng ta không chế ngự được ba độc tham, sân, si và, thanh tịnh hoá ba nghiệp thân khẩu ý một cách dễ dàng. Khi mà hành giả đã thanh tịnh hoá được ba nghiệp thân, khẩu, ý thì bạch nghiệp phát sinh và con đường giải thoát sẽ cận kề quanh bạn trong việc làm chủ tâm mình và, sẽ đạt được an ổn, được an lạc, thân tâm không còn phiền não nữa. Dưới đây chúng tôi sẽ trích đoạn kinh được đức Đạo sư chính thức dạy cho tôn giả A-nan theo Kinh Trung A-hàm 21 đức Đạo sư dạy cho người đệ tử thân cận của mình rằng:

“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn chánh cần, Tỳ-kheo đối với pháp ác bất thiện đã sanh, vì để đoạn trừ chúng nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ (đoạn trừ giải đãi biến nhác). Đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì để chúng không phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ (đoạn trừ giải đãi biến nhác) . Đối với các pháp thiện chưa sanh, vì để cho phát sanh nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ (đoạn trừ giải đãi biến nhác) . Đối với các pháp thiện đã sanh, vì để chúng kiên trụ, không bị quên lãng, không bị thoái hóa, được bồi bổ tăng tiến, được phát triển rộng rãi, được viên mãn cụ túc, nên khởi ước muốn, nỗ lực hành, tinh cần, dốc hết tâm, đoạn trừ (đoạn trừ giải đã biến nhác). A-nan, bốn chánh cần này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn chánh cần này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.”

Theo phương pháp tu này rất khế hợp với mọi căn cơ hành giả trong hiện quán tĩnh thức qua cuộc sống. Vì việc thiện và ác luôn luôn là những pháp đồng hành trong mỗi chúng ta. Chúng luôn xuất hiện theo sự tác động của ba độc tham, sân, si được thể hiện ra ngoài thân, khẩu và, ý nơi mà mọi hành giả chúng ta có thể phát hiện tiếp cận và kiểm soát được chúng qua những nổ lực tinh cần siêng năng hiện quán tĩnh thức của chúng ta. Nhờ vậy mà ai trong chúng ta cũng có thể tu tập theo pháp nôm này được, ở mỗi nơi, mỗi lúc và, mọi lứa tuổi cũng có thể tu tập một cách dễ dàng nếu người đó biết nổ lực siêng năng tinh tấn với chính mình qua hiện quán tĩnh thức thì, sẽ đạt được hiệu quả đưa đến kết quả tốt đẹp nhanh hơn, ngay trong cuộc đời này.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Tư, 28 tháng 10, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post


Đây là bốn phương pháp thu phục, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát. Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn Tiểu thừa và Bồ-tát Đại thừa sinh khởi lên lòng thân ái, để hướng dẫn chúng sanh hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất, đáp ứng và thõa mãn được những nhu cầu tình cảm có được của họ mà diều dắt. Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hanh nguyện Bồ-tát của mình, một bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát. Bốn phương pháp này đều có trong các kinh luận Tiểu thừa và Đại thừa như Trung A-hàm 33 Thiện Sanh kinh, Tạp A-hàm 26, Tăng Nhất A-hàm 22 và Thành thật luận … và kinh luân Đại thừa như Đại Tập kinh 29, Đại phẩm Bá-nhã kinh 24, Phạm Võng kinh, quyển thượng, A-tỳ Đạt-ma Tập dị môn túc luận 9, Đại trí độ luận 66, 88, Đại thừa nghĩa chương v.v… Theo trong các kinh luận này cũng tùy theo căn cơ mà đức Đạo sư chỉ dạy cho các hàng đệ tử của Ngài. Tuy cũng có một vải chi tiết sai khác nhau, nhưng trên đại thể đều đồng nghĩa, trong cách thực hành dù là Tiểu thừa chỉ giới hạn trong giá trị nhân quả phước báo để hoàn thành một kết quả tốt đẹp cho chính mình và người, trong khi các hàng Bồ-tát thì vượt qua khỏi giới hạn của nhơn quả trên mặt thực hành, mà hạnh nguyện của các Ngài qua việc giác tha cần hoàn thành trong vô nhân vô quả của hạnh Ba-la-mật. Bốn phương pháp theo cách dịch thẳng của các nhà dịch thuật Trung hoa thi Catvāri saṃgraha-vastūni là Tứ chủng bả-cá pháp, hay Tứ nhiếp pháp, còn gọi là Tứ nhiếp sự, Tứ sự nhiếp pháp, Tứ tập vật, hay gọi đơn giản là Tứ nhiếp, Tứ sự, Tứ pháp. Bốn pháp đó là:
(1) Bố thí nhiếp (dāna-saṃgraha)
(2) Ái ngữ nhiếp (priya-vādita-saṃgraha)
(3) Lợi hành nhiếp (artha-caryā-saṃgraha)
(4) Đồng sự nhiếp (samānārthatā-saṃgraha)
1. Bố thí nhiếp (dāna-saṃgraha), dùng bố thí để thu phục, còn gọi là Bố thí nhiếp sự, tức là bao gồm cả tùy thuộc vào phương tiện bố thí mà thu phục và tùy theo phương tiện huệ thí mà thu phục, tức là dùng tâm vô sở thí cho và nhận chân lý gọi là pháp thí để thu phục, cùng với tâm vô sở thí cho và nhận của cải tiền bạc gọi là tài thí để thu phục. Nếu có chúng sanh hữu tình nào ưa thích của cải tiền bạc thì dùng tiền bạc của cải vật chất mà ban cho; nếu ai ưa thích pháp thì đem chánh pháp tinh thần mà ban cho họ, khiến cho họ khởi lên tâm thân ái mà nương vào Bồ-tát mà chấp nhận đạo lý giải thoát. Ngoải hai cách bố thí tài thí và pháp thí ra còn có một loại bố thí khá quan trọng đối với tất cả mọi loài chúng sanh hữu tình, đó chính là trao cho họ sự không sợ hãi tức là vô úy thí đối trước cuộc sống; bỡi vì sự hiện hữu của chúng sanh là một kết quả tất yếu của vô minh tà kiến do nghiệp hoặc phiền não do con người tạo ra, nên con người vô minh đối chính mình, vô minh đối với mọi loài, vô minh đối với sự vật. Cũng do từ vô minh này mà chúng sanh hữu tình sợ hãi trước cuộc sống, sợ hãi trước mọi người, sợ hãi trước thiên nhiên; từ sự sợ hãi này mà con người đẻ ra mọi thứ mê tín dị đoan, tin trời, tin thượng đế, tin vào thần linh có quyền ban phước giáng họa và làm chủ vận mệnh cuộc sống của con người và, tự con người đánh mất chính mình vì vô minh sợ hãi vô căn cứ này. Như trong Thanh tịnh đạo luận đức Đạo sư dạy: "Không thể tìm ra một Tạo hóa, một Brahma, hay một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống. Chỉ có những hiện tượng diễn tiến tùy duyên!" Đó chính là pháp mà Đạo sư đã đem lại lòng tin vô úy nơi chính mình cho các đệ tử của Ngài; nếu ai đã thấu rõ bộ mặt thật của các pháp qua định luật Duyên khởi thì sẽ không còn sợ hãi trong cuộc sống nữa. Đây chính là pháp vô úy thí cần cho các đệ tử của Ngài trong việc thu phục chúng sanh đưa về chánh pháp giải thoát.
Ngoài ba phương pháp bố thí để thu phục người là tài thí, pháp thí và vô úy thí trên ra, còn có Báo ân thí nữa, đây là một cách báo ân người khác đã có công đối với chúng ta về mọi mặc, mà chúng ta đã mang ân nơi họ, chúng ta cần thực hành bố thí mà báo ân cho họ. Chính việc bố thí này cũng giúp cho chúng ta đưa người trở về với chánh pháp. Đây cũng là đạo lý đền ơn đáp nghĩa, ăn trái hớ kẻ trồng cây, ân oán phân minh theo đạo lý nhân quả làm người của chúng ta theo hai chiều thi ân đền báo của ân và oán, do đó cho phép chúng ta dùng bố thí để thu phục người đưa về chánh pháp, nên ngoài ba cách trên chúng cộng thêm với cách này nữa cho chúng ta có bốn cách bố thí để nhiếp phục.
Ở đây chúng ta cũng có thể đem Lục độ Ba-la-mật để phối hợp với bố thí nhiếp của tài thí, vô úy thí và pháp thí để phân bố theo thuộc tính của mỗi độ trong chức năng thực hành Bồ-tát đạo trong đó Tài thí thuộc về Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā) của lục độ, khi hành giả đã thực hành đến chỗ hoàn toàn ba luân không tịch người cho, vật cho, người nhận trong việc bố thí thuộc tài vật; còn Vô úy thí thì thuộc vào Trì giới Ba-la-mật (śīla-pāramitā), cùng Nhẫn nhục Ba-la-mật (ksānti-pāramitā) khi hành giả hoàn thành việc trì giữ luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới đến chỗ thanh tịnh được thân tâm hành giả cùng hoàn thành việc tu tập nhẫn nại oán-hại, an nhẫn chịu khổ, thấy rõ sự thật pháp nhẫn có thể đối trị sân nhuế khiến tâm an tịnh của Lục độ và, pháp thí là thuộc vào Tinh tấn Ba-la-mật (vīrāya-pāramitā), Thiền định Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), Trí tuệ Ba-la-mật (prajñā-pāramitā) khi hành giả hoàn thành được việc tinh tấn cả hai thân và tâm siêng năng tương tục thân siêng tu thiên pháp, tâm siêng hành thiện đạo, tâm tâm tương tục tinh cần tu nhẫn nhục, thiền định cùng trí tuệ. Nhờ tinh tấn mà hành giả đã đẩy lùi hết tất cả mọi giải đãi biếng nhác sanh trưởng thiện pháp của Lục độ, cùng việc hoàn thành thiền định, hiện pháp lạc trú tịnh lự, hiện tại không còn loạn tâm nữa. giờ đây hành giả hoàn thành trí tuệ, đạt được trí tuệ thế tục cùng duyên vào trí tuệ thắng nghĩa, trí tuệ hữu tình mà trừ đi hết mọi sự ngu si do vô minh di hại, cuối cùng biết rõ được thật tướng của các pháp hoàn thành Lục Ba-la-mật.
Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Trì địa phân ra là địa thứ nhất của Thập địa, trước hết là hành đàn lợi tha, tức là vì người mà thiết lập đàn bố thí. Bố thí ở đây chỉ chỉ dành cho của cải vật chất thuộc tài thí đem ra giúp đỡ ban cho những ai cần đến của cải vật chất mà khiến cho mọi người được lợi ích, nên làm cho việc Bố thí càng ngày càng tăng lên và, nhờ tu pháp thí đối với mọi người mà làm cho ái ngữ cũng tăng thêm.
Qua Bố thí nhiếp cho chúng ta thấy rằng dức Đạo sư dạy cho mọi người biết được là thế nào để nhiếp thọ thu phục người khác để đưa họ vào đạo qua phương cách Bố thí từ thấp lên cao, từ hữu lậu đến vô lậu, tùy thuộc vào căn cơ căn tánh và những nhu cần cần thiết của mọi người mà theo đó thực hiện Tứ nhiếp pháp dẫn dắt mọi người vào đạo giải thoát cho những người đang cần việc bố thí cho cả tinh thần lẫn vật chất.
2. Ái ngữ nhiếp (priya-vādita-saṃgraha), dùng lời nói từ ái để thu phục, còn gọi là Ái ngữ nhiếp sự, là phương tiện có khả năng thu phục. Ái ngữ, ái ngôn là phương tiện để thu phục, có nghĩa là y cứ vào căn tánh căn cơ của chúng sanh bằng vào lời nói từ ái mà an ủi phủ dụ, khiến cho họ khởi lên tâm thân ái mà chấp nhận vào đạo giải thoát hay, khiến cho họ khi nghe những lời nói từ ái tường thuật chánh giáo chánh lý đủ thu phục mà dẫn họ đến chỗ khai ngộ chân lý. Ngoài lời nói từ ái tốt đẹp làm vừa lòng người nghe, để thu phục người đi vào đạo một cách vui vẻ và tự nguyện, mà lời nói ra còn phải tránh xa và xa lìa những lời nói có lỗi thuộc về khẩu nghiệp nữa, tức là không nói lời hư dối, không nói lời thêu dệt, không nói lời nói thô ác, không nói lời nói chia rẽ đâm thọc để gây chia rẽ thù hằn với nhau đưa đến mất lòng tin đối với mọi người đối với chánh pháp. Hai cách nói trên là hai cách nói làm vừa lòng và, thõa mãn tình cảm cá nhân hữu tình, sẽ cảm phục được lòng người để đưa về chánh pháp một cách rất hữu hiệu.
Ngoài hai cách nói trên nhằm thu phục lòng người đưa về với đạo, ở đây chúng tôi sẽ đem Lục độ Ba-la-mật phối hợp với Ái ngữ nhiếp mà liệt kê theo chức năng thuộc tính phù hợp với ý nghĩa của chúng qua tương ưng trong khi hành giả thực hành Bồ-tát hạnh của mình thì Ái ngữ nhiếp thuộc về Trì giới Ba-la-mật (śīla-pāramitā), cùng Nhẫn nhục Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), khi hành giả hoàn thành việc trì giữ luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới đến chỗ thanh tịnh được thân tâm hành giả cùng hoàn thành việc tu tập nhẫn nại oán-hại, an nhẫn chịu khổ, thấy rõ sự thật pháp nhẫn có thể đối trị sân nhuế khiến tâm an tịnh như vô úy thí và pháp thí đã nói ở trên thì, ở đây ái ngữ cũng thuộc Trì giới Ba-la-mật và nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì Ái ngữ thuộc về khẩu trong việ làm thanh tịnh khẩu nghiệp qua lời nói của miệng ngoài lời nói từ ái như trên trong việc làm lòng người thõa mãn bản ngã thu phục mọi người được thì ở đây vấn đề làm thanh tịnh khẩu nghiệp nhân việc tránh không nói lời ác khẩu, nói lời thêu dệt, nói lời nói đâm thọc gây chia rẽ và nói lời hư dối làm phật lòng người đi ngược lại tình cảm tự ái cá nhân qua những xúc phạm của lời nói sẽ khiến cho lòng người thõa mãn được tình cảm thì cũng đưa mọi người đi đến đạo được.
Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì thì, trong mười địa, địa thứ hai trì giới kiên cố, tức là xa lìa bốn lỗi lầm của miệng thì Ái ngữ sẽ tăng thêm.
Qua Ái ngữ nhiếp chúng cũng quan trong không kém gì Bố thí nhiếp. Ở đây chúng có những giá trị thuộc thuộc tính ý nghĩa của chúng mà qua đó lời nói được coi như là một công cụ có công năng thu nhiếp mọi người quay về chánh đạo, qua phương cách biết sử dụng, dụng ngữ làm sao cho thích hợp với tâm lý mọi người, có nghĩa là lời nói không đi ngược lại tình cảm lợi ích của mọi người thì, lời nói đó có tính cách thiết phục lớn, vì: “Lời nói không mất tiền mua, nên lựa lời nói cho vừa lòng nhau.”
3. Lợi hành nhiếp (artha-caryā-saṃgraha), dùng những việc làm lợi ta lợi người mà thu phục, còn gọi là Lợi hành nhiếp sự, hay Lợi ích nhiếp, là tạo phương tiện khiến cho người ta đi vào đạo, tạo phương tiện độ thoát, đem lại lợi ích cho mình cho người, có nghĩa là tạo thiện hạnh thân khẩu ý đem lại lợi ích cho mọi loài chúng sanh, khiến cho họ sinh tâm thân ái mà đi vào đạo. Hay khuyên mọi người tu tập theo chánh hành, hoặc hành thiện tự ba nghiệp của chính mình khởi lên khiến cho mọi người cùng nhau ân triêm lợi ích, tất cả những việc làm trên đều gọi là lợi hành cả. Nhờ đây mà thu phục hướng dẫn được mọi người khiến họ phát tâm vào thực hành đạo giải thoát.
Ngoài những hình thức hành lợi để nhiếp phục người vào đạo, quay về với chánh pháp như trên ra, nếu ở đây chúng ta đem hành lợi này phối hợp với Lục Ba-la-mật thì, theo chức năng thuộc tính của pháp hành này, nó sẽ tương ưng với tinh tấn Ba-la-mật (vīrāya-pāramitā) trong lục Ba-la-mật theo hành pháp của Bồ-tát khi thực hành Lục Ba-la-mật. Vì khi Bồ-tát muốn hóa độ chúng sanh trước hết là phải tự lợi điều này chúng ta khỏi bàn, vì nếu tự bản thân của Bồ-tát không hoàn thành sự nghiệp giải thoát của mình được thì làm sao có thể hướng dẫn hay thu phục được người khác theo về với chính Đạo mà mình đang thực hành và, sau đó Bồ-tát mới thực hành hạnh nguyện độ tha của mình, thu phục chúng sanh qua việc làm lợi người, có như vậy nguyện lực của Bồ-tá mới được thành tựu những sở nguyện được. Khi bồ-tát hành Bồ-tát đạo mà thiếu đi tinh tấn thì dứt khoát sở nguyện của chúng ta không thành tựu. Trong mọi phương pháp tu, nếu muốn đạt được kết quả tốt đẹp mau chóng thì điều kiện tiên quyết của hành giả là thực hành tinh tấn, nếu trong lúc tu hành mà chúng ta thiếu đi sự tinh tấn tinh cần thì cho dù pháp tu đó dễ dàng đến đâu đi nữa, kết quả cuối cùng sẽ không đạt được như những mong muốn của chúng ta.
Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì phân. Theo Bồ-tát Địa Trì kinh 3, hay luận Đại Trang Nghiêm thì lợi hành có nghĩa là khiến cho mọi người đi vào phương tiện, trước tiên trao cho họ chánh pháp, tức là chỉ dạy họ thông hiểu những lời dạy của đức Đao sư, sau đó hướng dẫn họ thực hành đúng chánh pháp và, nhờ họ thực hành đúng chánh pháp mà họ ra khỏi được nơi bất thiện trở về nơi thiện, tức là khiến mọi chúng sanh hữu tình vượt qua khỏi sinh tử hiện chứng Niết-bàn an vui giải thoát. Theo luận Địa-trì thì, trong mười địa của Bồ-tát, nếu đem phối hợp với Lợi hành thì địa thứ ba sẽ tương ưng với nó trong việc chúng sanh tu tập mười loại hạnh cứu độ; vì cứu độ là thuộc tính của hành lợi, nên càng cứu độ nhiều chứng nào thì lợi hành càng tăng trưởng vượt bực chừng ấy. Lợi hành thuộc phạm vi hoạt động lợi tha nên việc cứu độ tha nhân là mục tiêu hành đầu của Bồ-tát trong sự nghiệp hoàn thành Phước Tuệ song tu của mình.
Tuy nhiên khi chúng ta hành lợi cũng luôn tùy thuộc vào đối tượng để làm lợi có thể phân ra làm bốn loại: Một, dùng phương tiện tùy thuộc vào những người thiện không có đức. Hai, Tán dương khen ngợi những người thiện có đức. Ba, Quở trách những người ác dễ điều phục. Bốn, dùng thần lực để hàng phục những người ác khó điều phục, khiến cho họ bỏ ác. Ở đây, hai loại trước gọi là nhiếp thủ để tập hợp thiện, hai loại sau gọi là nhiếp thủ để lìa ác.
Qua Lợi hành nhiếp cho chúng ta thấy, đối với Bồ-tát muốn hoàn thành tuệ giác vô thượng của mình thì việc tự lợi cá nhân trong tu tập giải thoát mới chỉ là một nửa chặn đường đi đến giải thoátt mà thôi. Ở đây Bồ-tát muốn hoàn thành sở nguyện của mình một cách rốt ráo thì việc thực hành lợi tha là điều kiện tiên quyết; nhưng trong hành lợi tha này muốn thành tựu triệt để thì tinh tấn là đầu mối quan trong đưa đến sự thành công hạnh nguyện. Nói chung trong sự nghiệp tu hành của chúng ta điều kiện để thành tựu chính là tinh tấn siêng năng nổ lực trong mọi lúc trong mọi nơi, nó là chìa khóa quan trọng để mở toan màng lưới vô minh cho người tu hành.
4. Đồng sự nhiếp (samānārthatā-saṃgraha), dụng cùng sự nghiệp với mình mà thu phục, còn gọi là Đồng sự nhiếp sự, cùng sự nghiệp ở đây có nghĩa là cùng sự nghiệp là chúng sanh hữu tình, cùng lợi ích như nhau, cùng công việc khổ vui (nghiệp), có nghĩa là hành giả khi gần gũi chúng sanh cùng có cái khổ cái vui như họ, dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh chúng sanh như thế nào, rồi tùy thuộc vào những thân căn y báo chánh báo cùng cái khổ cái vui của họ mà thị hiện (cho các hàng Bồ-tát) thân hình ứng váo những thân căn đó mà hiện thân cứu vớt đưa họ vào chánh đạo, khiến cho họ cũng được những lợi ích như chúng ta hay, hành giả chúng ta đồng sự với chúng sanh hữu tình mà tùy theo đồng sự nghiệp chúng sanh, cùng có lợi, cùng khổ vui họa phước mà giúp đỡ hướng dẫn họ thoát khổ được vui.
Ngoài những hình thức hành lợi để nhiếp phục người vào đạo, quay về với chánh pháp như trên ra, nếu ở đây chúng ta đem hành lợi này phối hợp với Lục Ba-la-mật thì, theo chức năng thuộc tính của pháp hành này, nó sẽ tương ưng với hai độ Ba-la-mật là Thiền định Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), và Trí tuệ Ba-la-mật (prajñā-pāramitā) trong lục Ba-la-mật, theo hành pháp của Bồ-tát khi thực hành Lục Ba-la-mật. Vì khi Bồ-tát hành Bồ-tát đạo không những chỉ tự lợi cho mình không thôi mà còn lợi tha nữa; trong khi lợi tha mang lợi lạc đến mọi người để hoàn thành sự nghiệp giải thát cho mình thì vấn đề lợi tha cũng quang trọng ngang bằng với tự lợi. Vì lợi tha không những chỉ vì lòng từ thương xót chúng sanh mà đưa họ thoát khỏi khổ đau để đạt an vui Niết-bàn mà còn làm nhân cho việc hoàn thành sứ mệnh giải thoát cho chính họ nữa, nên việc dùng đồng sự nhiếp là việc làm tất yếu không thể thiếu đi được. Trong Tứ nhiếp pháp mỗi pháp chúng có chức năng riêng và chung của chúng, do đó đồng sự nhiếp ngoài cai nghĩa chung chúng còn có nghĩa riêng theo thuộc tính của chính nó nữa đó là: việc hóa độ thu phục những đối tượng chúng sanh cùng chung sự nghiệp, cùng chung lợi ích, cùng chung y báo, cùng chung khổ vui, cùng chung công ăn việc làm, mà hành giả có những cái chung đó và, cũng nhờ những cái chung đó mà hành giả có những thuận duyên may mắn, những tiếp cận gần nhau, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, lối sống mà chúng ta dễ dàng thu phục, hướng dẫn họ trở về với chánh pháp, nếu những ai đi không đúng với con đường giải thoát. Đó là những thuận có được của hành giả trong chức năng thu phục đem người trở về với chánh pháp. Khi mọi người đã được trở về với chánh pháp rồi thì, chính lúc đó hành giả cũng hoàn thành sự nghiệp giải thoát cho chính mình theo định luật Duyên khởi hình thành và hủy diệt của nó. Khi đức Phật còn tại thế, có Bồ-tát Tinh Danh hiện thân cư sĩ, với mục đích là để dễ gần gũi và cảm hóa được mọi người một cách rộng rãi. Ngài đã có gia đình nhưng lại chuyên cần tu tập phạm hạnh. Bên ngoài tuy luôn luôn bận rộn với mọi tiếp xúc, nhưng bên trong thì luôn ở trong thiền định. Ngài giao thiệp rất rộng rãi, hiện thân khắp nơi, từ sòng bac, các quán nhậu nhẹt cho đến dâm phòng tửu điếm đều có sự hiện diện của Ngài với mục đích là để hóa độ, hướng dẫn những kẻ sa đọa, vấp ngã đi về với chánh pháp. Có đôi khi Ngài tham gia chính trị, làm thầy dạy học, dạy đời và, làm đủ thứ chuyện trên đời nếu thấy những đối tượng đó và nơi chốn đó, cần được độ thì Ngài hóa thân vào những nơi đó ngay. Tuy Ngài hóa thân vào những nơi triền phược có thể đem đến cho Ngài mọi rắc rối, nhưng với cuộc sống vô tâm như vậy Ngài luôn luôn làm chủ chính mình nên không bị nhiễm ô, như hoa sen trong bùn, tâm hồn Ngài luôn trụ trong cảnh giới thanh tịnh giải thoát. Sở dĩ Ngài hóa thân mình biến thành những thuộc tính như vậy là với mục đích Đồng sự với mọi người mà hóa độ thu phục họ trở về chánh pháp.
Ở trên là chúng tôi đem lục Ba-la-mật phối hợp với Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp. Tiếp theo chúng tôi sẽ phối hợp Thập địa với Bố thí nhiếp pháp như trong Địa trì luận thì: Tứ nhiếp pháp vốn thông khắp trong các vị của Thập địa được phân ra tùy theo thuộc tính cùng ý nghĩa mà luận Địa Trì phân. Theo Bồ-tát Địa Trì kinh 3, hay luận Đại Trang Nghiêm thì Đồng sự là luôn tùy thuộc vào phương tiện theo thuộc tính của đối tượng mà thay đổi tương ứng với chúng, cùng nhau tu tập sự nghiệp chánh, thực hành đạo chánh, khiến cho chúng sanh hữu tình tùy thời mà chuyển hướng về chánh đạo và đạt được đạo an vui giải thoát ngay đời này. Theo luận Địa-trì thì, trong mười địa của Bồ-tát, nếu đem phối hợp với Đồng sự thì địa thứ tư sẽ tương ưng với nó trong việc không bỏ chúng sanh mà tu tâp phẩm đạo, nên Đồng sự càng ngày được tăng trưởng. Vì theo luận Địa Trì thì muốn cho Đồng sự tăng trưởng nhanh thì phải cần có sự phối hợp với địa thứ tư trong lục địa thì kết quả mới mang lại cho chúng ta những người thực hành Tứ Nhiếp mới có sự thành công mau chóng được. Vì thông thường nếu hành giả không theo Bồ-tát hạnh để thực hành thì Tứ Nhiếp chỉ có giới hạn trong giá trong nhân quả mà thôi, không đi sâu và xa được.
Qua Đồng sự nhiếp, chúng ta nhận thấy rằng, cũng như ba pháp trên cũng từ pháp hữu lậu đến pháp vô lậu Đồng sự nhiếp là hệ luận cuối cùng để Bồ-tát thực hiện con đường Bồ-tát hành của mình và, cũng nhờ vào con đường Bồ-tát hành này mà Đồng sự nhiếp mới hiện hữu những giá trị của nó qua sự thực hành lợi tha của hành giả. Do đó Đồng sự nhiếp cũng là một trong những thứ duyên cần thiết để hành giả hoàn thành sở nguyện của mình, đó chỉ là giá trị của nửa mặt trên mặt thực hành, còn nửa mặt khác làm lợi lạc cho mọi người, kéo mọi người trở về với chánh pháp là nguyên nhân đưa thế giới này đến chỗ hòa bình an lạc. Đây chính là những giá trị sống động nhất để trả ơn chư Phật đền ơn Tam Bảo đền ơn chúng sanh trong muôn một của hành giả tu tập Tứ Nhiếp pháp nói chung và Đồng sự nhiếp nói riêng.
I . TỨ NHIẾP PHÁP THEO KINH LUẬN TIỂU THỪA.
Theo các kinh luận Tiểu Thừa thì Tứ nhiếp pháp giá trị của nó chỉ được giới hạn trong phạm trù nhân quả Nhân Thiên cho cả tại gia và xuất gia mà thôi. Đối với các hàng Phật tử tại gia đức Đạo sư dạy về Tứ nhiếp pháp chú trọng về phần danh và có lợi ngay trong hiện đời này và đời sau nhân quả hai đời, qua hành Tứ nhiếp pháp như theo Trung A-hàm 33, kinh Thiện Sanh đức Đạo sư dạy con của một nhà Cư sĩ:
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn nhiếp sự. Bốn việc ấy là gì? Một là huệ thí. Hai là lời nói khả ái. Ba là làm lợi cho người. Bốn là có lợi cùng chia.
Rồi đức Đạo sư nói bài kệ:
Huệ thí và ái ngôn, Thường vì người lợi hành,
Với tất cả đồng lợi, Khắp nơi đều vang danh.
Sự này duy trì đời Cũng như người đánh xe.
Nhiếp sự này vắng mặt, Mẹ không nhân bởi con
Mà được kính phụng dưỡng Con đối cha cũng vậy.
Nếu có nhiếp sự này, Phước hựu thật to lớn;
Chiếu soi như ánh nhật, Tiếng tốt truyền đi nhanh.
Thông minh, không nói cộc Như vậy, làm nên danh
Định vững, không cao ngạo; Tiếng loan truyền đi nhanh
Thành tựu tín và giới, Như vậy làm nên danh.
Hăng hái, không giải đãi; Thường cho người uống ăn;
Dìu dắt vào nẻo chánh; Như vậy làm nên danh.
Bạn bè cùng lân tuất, Ái lạc có giới hạn;
Giữa người thân, nhiếp sự Thù diệu như sư tử.
Học nghề, học buổi đầu, Kiếm lợi, kiếm sau đó.
Sản nghiệp đã dựng thành, Phân chia làm bốn phần.
Phần cung cấp ẩm thực; Phần điền giả nông canh;
Phần kho tàng chất chứa, Phòng khi hữu sự cần;
Gom nông tang, thương cổ, Thu xuất, lợi một phần.
Thứ năm để cưới vợ; Thứ sáu làm nhà cửa.
Tại gia sáu sự này, Hưng thịnh, sống khoái lạc.
Tiền tài sẵn càng đầy, Như nước xuôi biển cả.
Đời mưu sinh như vầy, Như ong hút nhụy hoa;
Đời mưu sinh lâu dài, Sống an lạc hưởng thọ.
Xuất tiền, không xuất xa; Không tản mác tung ra.
Không thể đem tài vật Cho hung bạo, ngoan tà.
Phương Đông là cha mẹ; Phương Nam là tôn sư
Phương Tây là thê tử; Phương Bắc là nô tỳ;
Phương Dưới bằng và hữu; Phương Trên bậc tịnh tu;
Nguyện lễ các phương ấy, Phước đời này đời sau.
Do lễ các phương ấy, Thí chủ sanh trời cao.”
Với mục đích hướng dẫn người tại gia tu tập lòng từ bi không những chỉ thương yêu cá nhân mình thôi mà cần phải thương yêu tha nhân những người sống chung quang dù là có liên hệ huyết thống giòng họ bà con, hay không có sự liên hệ huyết thống giòng họ bà con thì lòng từ vẫn được khơi dậy để đem lại lợi lạc hạnh phúc cho cá nhân và cộng động xã hội. Vì Tứ nhiếp pháp này là nhân là nền tảng sanh ra mọi thứ phước đức trong cõi Nhân Thiên, nên nếu hành giả nào thực hành nhiếp sự này, thì phước đức to lớn thêm sáng soi như ánh nhật; thông minh, không nói cộc, định vững, không cao ngạo; thành tựu tín và giới, tiếng tốt truyền đi nhanh khắp nơi đều nghe tiếng, đó mới chỉ là cái quả trong hiện tại còn trong tương lai thì sau khi chết mọi người sẽ được sinh về những cõi trời cao hưởng thọ mọi khói lạc giàu sang nhờ nhân đã hành Tứ nhiếp pháp. Và cũng nhân việc đức Đạo sư nói về giá trị nhân quả của việc thực hành Tứ nhiếp pháp này Ngài cũng dạy cho các hàng Cư sĩ tại gia sáu cách sống để đem lại hưng thịnh khoái lạc cho mọi người trong việc thực hành Tứ nhiếp pháp có lựa chọn khi làm việc. Ở đây chủ yếu là nêu cao đặc tính nhân quả trong việc thực hành chỉ ác hành thiện theo tinh thần “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.”
Đối với các hàng xuất gia thì, chú trọng về tinh thần nhiều hơn là chú trọng về vật chất như Phật tử tại gia. Cũng trong bố thí, nhưng chú trọng đến bố thí pháp và bố thí vô úy nhiều hơn trong khi thực hành Tứ nhiếp pháp. Đây chính là chức năng lợi tha có điều kiện theo luật nhân quả hai đời nên mục đích cuối cùng cũng mang lại cho tự lợi là chính trong việc hành lợi tha này qua kết quả được hưởng sau đó hoặc gần hoặc xa trong dời này hay đời sau, cùng những nhiếp pháp khác, như trong kinh Tạp A-hàm quyển 26 kinh 636 đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo:
“Bố thí tối thắng, đó là pháp thí. Ái ngữ tối thắng, là khiến thiện nam tử thích nghe, nói pháp đúng lúc. Hành lợi tối thắng là đối với người không có tín khiến có tín, xác lập trên tín; đối với người hoc giới thì xác lập bằng tịnh giới; đối với người bỏn sẻn thì bằng bố thí; đối với người ác trí huệ thì bằng chánh trí mà xác lập. Đồng lợi tối thắng, là nếu A-la-hán thì trao cho người quả A-la-hán. A-na-hàm thì trao cho người quả A-na-hàm. Tư-đà-hàm thì trao cho người quả Tư-đà-hàm. Tu-đà-hoàn thì trao cho người quả Tu-đà-hoàn. Người tịnh giới thì trao người khác bằng tịnh giới.” Đối với các hàng Tỳ-kheo xuất gia đức Đạo sư dạy rộng và sâu hơn hàng tại gia tùy thuộc vào thuộc tính chức năng tự lợi, lợi tha khi thừa hành Phật sự có điều kiện trong việc chuyển vận bánh xe chánh pháp của họ mà có khác hơn thuộc tính chức năng của các hàng Cư sĩ tại gia. Phương pháp thực hành trong Tứ Nhiếp pháp được đức Đạo sư gọi là tối thắng thì phần này được dành cho các vị xuất gia trong chức năng của họ là: Pháp thí đối với bố thí nhiếp. Nói pháp đúng lúc đối với ái ngữ nhiếp. Xác lập lòng tin với người không lòng tin, xác lập tịnh giới với người học giới, xác lập bố thí với người bỏn sẻn, ba cách này dành cho lợi hành nhiếp. Nếu A-la-hán thì trao cho người quả A-la-hán; A-na-hàm thì trao cho người quả A-na-hàm; Tư-đà-hàm thì trao cho người quả Tư-đà-hàm; Tu-đà-hoàn thì trao cho người quả Tu-đà-hoàn; người tịnh giới thì trao người khác bằng tịnh giới, đối với Đồng lợi nghiếp.
Cũng kinh Tạp A-hàm quyển 26, nhưng kinh 637 thì đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo có một vài sai biệt trong vấn đề thời gian ba đời, khi đề cập đến Tứ nhiếp pháp trong lúc nhiếp thủ đại chúng, có thể tùy thuộc vào một trong bốn pháp này, nếu thấy thích hợp để nhiếp thủ đại chúng:
“Nếu như có pháp nào để nhiếp thủ đại chúng thì tất cả đều ở trong bốn nhiếp sự. Hoặc một nhiếp thủ là bố thí, hoặc một nhiếp thủ là ái ngữ, hoặc một nhiếp thủ là hành lợi, hoặc một nhiếp thủ là đồng lợi. Ở trong thời quá khứ, những pháp nào đã nhiếp thủ đại chúng trong thời quá khứ cũng không ngoài bốn nhiếp sự. Những pháp nào sẽ nhiếp thủ đại chúng trong thời vị lai cũng không ngoài bốn nhiếp sự. Hoặc một pháp nhiếp thủ là bố thí, hoặc một pháp nhiếp thủ là ái ngữ, hoặc một pháp nhiếp thủ là hành lợi, hoặc một pháp nhiếp thủ là đồng lợi.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Bố thí cùng ái ngữ, Hoặc hành vi hành lợi,
Đồng lợi các hành vi, Mỗi tùy chỗ thích hợp.
Nhờ đây nhiếp thế gian, Như xe lăn nhờ gang.
Đời không bốn nhiếp sự, Quên ơn mẹ nuôi con.
Cũng không tôn trọng cha, Không khiêm tốn phụng sự.
Vì có bốn nhiếp sự, Và tùy thuân pháp này.
Cho nên có Đại sĩ, Đức trùm cả thế gian.“
Qua đoạn kinh này chúng ta thấy cũng Tứ nhiếp pháp nhưng ở đây nội dung chúng tùy thuộc vào thuộc tính từng cách nhiếp phục hoặc là Bố thí, hoặc Ái ngữ, hoặc là Hành lợi hoặc là Đồng sự, đối với đối tượng của đại chúng mà các hành giả thi thiết đối pháp để hàng phục đưa họ về với chánh pháp. Và ở đây cũng tùy thuộc vào thuộc tính của thời gian quá khứ hay tương lai mà nhiếp thủ đối với đại chúng. Nhờ vậy mà hành giả nhiếp phục được cả thế gian và, có các bậc Đại sĩ xuất hiện, đức bao trùm cả thế gian.
Riêng theo kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 22, đức Đạo sư đã kể lại cho các Tỳ-kheo nghe chuyện quá khứ lâu xa trong hiền kiếp này: Có Phật Ca-diếp ra đời tại nước Ba-la-nại, đi hóa đạo tại nước này cùng với chúng hai vạn đại Tỳ-kheo thì, bấy giới có một người con gái con vua Ai Mẫn tên là Tu-ma-na có tâm kính ngưỡng hướng về Như lai Ca-diếp vâng giữ cấm giới, thường thích bố thí và hành bốn việ dó là Bố thí, ái kính, làm lợi người, đồng lợi. Cô thường ở chỗ Phật Ca-diếp tụng Pháp cú. Ở trên lầu cao thường lớn tiếng tụng tập và phát nguyện rộng lớn: “Con hằng có pháp Tứ nhiếp này, lại ở trước Như lai mà tụng Pháp cú. Trong đó nếu có chút phước nào, cầu cho con sinh vào chỗ nào, không rơ vào ba đường ác, cũng không sinh vào nhà nghèo; đời vị lai cũng sẽ gặp đươc bậc tối tôn như vầy. Khiến cho thân nữ của con không bị chuyển đổi và được pháp nhãn thanh tịnh.” Sau khi nhân dân trong thành nghe vương nữ thề nguyện như vậy, họ liền đến chỗ vương nữ nói: “Hôm nay, Vương nữ rất là chí tín, tạo các công đức, bốn sự không thiếu: Bố thí, kiêm ái, lợi người, đồng lợi. Lại phát thệ nguyện, mong đời sau gặp bậc như vậy, thuyết pháp cho nghe để được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm nay, Vương nữ đã phát thệ nguyện, cùng với nhân dân cả nước chúng tôi đồng thời được độ.” Lúc ấy vương nữ đáp: “Tôi đem công đức này cùng thí đến các người. Nếu gặp đượcNhư lai thuyết pháp, sẽ cùng lúc được độ.
“Tỳ-kheo, các ông há có điều nghi ngờ sao?chớ nghĩ như vậy. Vua Ai Mẫm lúc đó nay chính là trưởng giả Tu-đạt. Vương nữ lúc ấy nay chính là Tu-ma-đề. Nhân dân trong thành lúc ấy, nay chính là tám vạn bốn nghìn chúng. Do thề nguyện kia nên nay gặp Ta, nghe pháp đắc đạo; cùng nhân dân kia đều đươc pháp nhãn thanh tịnh. Hãy ghi nhớ phụng hành ý nghĩa này. Vì sao vậy? Vì Tứ nhiếp pháp này là ruộng phước tốt nhất. Nếu có Tỳ-kheo nào thân cận bốn sự này thì liền được bốn đế. Nên cầu phương tiện thành tựu bốn sự việc này.” Đây là một kết quả thực tại được đức Đạo sư lấy đó mà kể lại tác nhân quá khứ được thể hiện như thế nào để có được một kết quả như hôm nay. Đó chính là những giá trị có được khi thực hành Tứ nhiếp pháp này cho dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào vẫn có những giá trị phổ quát như nhau qua việc hành trì nó để khuyến khích thúc đẩy các Tỳ-kheo thực hành nó để dạt được Bốn sự thật (Tứ đế) ngay trong hiện tại nếu thực hành đúng pháp và tinh cần.
Theo luận Thành Thật thì, ngoài những giá trị nhân quả có được như các kinh đã nói qua, Tứ nhiếp pháp còn có giá trị vĩnh cữu không gì có thể phá hoại nó được nếu hành giả kiên cố trong pháp hành của mình đối với Tứ nhiếp pháp: “Như trong kinh đã nói, có Tứ nhiếp pháp đó là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng lợi. Bố thí là, lúc nào cũng dùng quần áo, đồ ăn thức uống cùng mọi đồ vật kiên trì không ngơi nghỉ đem bố thí để nhiếp phục chúng sanh. Ái ngữ là, lúc nào cũng kiên trì dùng lời nói tùy thuận tình ý đối với chúng sanh để nhiếp phục. Lợi hành là, lúc nào cũng kiên trì vì người khác mà cầu lợi cho họ, nếu có điều kiện giúp đỡ họ hoàn thành công việc. Đồng lợi là, lúc nào cũng kiên trì ở trong hoàn cảnh, cùng chung một thuyền, có khổ cùng lo, có vui cùng mừng với mọi người. Nếu người nào dùng pháp Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng lợi mà nhiếp phục chúng sanh thì, kết quả đưa đến bất khả hoại.”
Qua kinh luận Tiểu thừa về Tứ nhiếp pháp được đức Đạo sư đem dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài, tuy có những sai khác tùy thuộc vào thuộc tính của từng đối tượng về cách hành sử, nhưng trên mặt đại thề chúng cùng đưa đến kết quả lợi mình lợi người theo luật nhân quả một đời, hai đời, ba đời lệ thuộc vào tác nhân tại gia hay xuất gia như những gì đức Đạo sư đã dạy qua các kinh luận Tiểu thừa mà chúng tôi đã trích dẫn như trên.

II . TỨ NHIẾP PHÁP THEO KINH LUẬN ĐẠI THỪA.

Theo kinh luận Đại thừa thì Tứ nhiếp pháp giá trị của nó được nâng cao hơn trong việc thực hành Bồ-tát đạo để hoàn thành giác hạnh viên mãn cho quả vị Phật của các hàng Bồ-tát, nên tự thân giá trị của nó phải được đặt nặng trong việc lợi tha vô điều kiện dành cho cả hai hàng Bồ-tát xuất gia cùng tại gia. Vì vậy cho nên cũng cùng Tứ nhiếp pháp nhưng có sự sai khác về phương pháp hành nhân cũng như kết quả của nó tùy thuộc vào thuộc tính của Tiểu thừ và Đại thừa: Một đàng thì có điều kiện giới hạn trong nhân quả, một đàng thì vô điều kiện giới hạn trong nhân quả. Theo Kinh Ưu-bà-di Tịnh hạnh pháp môn quyển thượng, đức Đạo sư đã kể về khi Ngài còn làm người thường thực hành Tứ nhiếp pháp: “… Bố thí, Ái ngữ, Lợi ích (lợi hành), Đồng sự để nhiếp hóa chúng sanh mỗi khi có bất cứ chúng sanh nào muốn tìm cầu điều gì Ngài cũng đáp ứng những yêu cầu của họ mà không làm trái lại với ý của họ. Nhờ công đức vô điều kiện này mà Ngài đã tích tụ thiện nghiệp sâu rộng cho đến khi chỉ còn một đời cuối cùng là “nhứt sinh bổ xứ” trong thời gian này Ngài thường hưởng nhạc Trời và khi sinh xuống thế gian này đạt được hai tướng đại nhơn đó là: Tay chân mền mại, các ngón tay chân liên kết bỡi một màn da mỏng (man võng). Vì hai tướng này, nếu là người ở tại gia thì làm Chuyển luân Thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, nếu là người xuất gia thì đạt dược ngôi vị Pháp vương, khéo nhiếp phục tất cả vô lượng chúng sanh, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn, phi Nhơn v.v… Lúc bấy giờ đức Đạo sư nói kệ cho các vị Ưu-bà-đi rằng:
“Tu bố thí, ái ngữ Hành lợi ích, đồng sự
Thường dụng Tứ nhiếp pháp Nhiếp tất cả chúng sanh.
Nhờ hành thiện nghiệp này Thường sanh vào Trời Người
Nếu sinh ở thế gian Được hai tướng đại nhơn.
Chân tay đều mền mại Có màn da liên kết
Thật cực mỏng vi diệu Ngoài vàng trong màu hồng.
Vì nhờ hai tướng này Tại gia Chuyển luân vương
Nếu hóa bằng pháp thiện Tất cả đền hành theo.
Thọ trì chắc không phạm Vui vẻ tán Thánh vương
Thi ân không cầu đáp Lòng từ trải bôn phương.
Nếu xa lìa năm dục Xuất gia được thành Phật
Vì chúng sanh nói pháp Người nghe cúi đầu nhận.”
Đây là Tứ nhiếp pháp mà đức Đạo sư đã từng thực hành trong quá khứ khi còn làm người trong lúc hành Bồ-tát đạo. Những kết quả có được trong hiện tại chính là những tác nhân mà Ngài đã từng hành Bồ-tát đạo trong qua khứ đã thực hiện qua Tứ nhiếp pháp không điều kiện vì chúng sanh mà nhiếp hóa đưa họ về chánh đạo như Ngài.
Và cũng theo Đại tập kinh quyển thượng đức Đạo sư dạy tôn giả Xá-lợi-phất về việc thực hành của các hàng Bồ-tát về Tứ nhiếp pháp theo thể cách của Ba-la-mật Đại thừa không cần biết đến kết quả hồi báo của hành động người thực hành Tứ nhiếp, miễm sao việc làm của họ mang lại lợi lạc cho chúng sanh và đưa họ về đường chánh thì làm, còn việc mang lại lợi lạc cho chính bản thân của người thực hành là như thế nào không để ý đến!
“… Đối với Bồ-tát Tứ nhiếp cũng không thể tận. Sao gọi là Bốn? Một là Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi hành, bốn là Đồng sự.
Sao gọi là Bố thí? Thí có hai loại: Tài thí và Pháp thí. Sao gọi là Ái ngữ? đối với người cầu tài và người nghe pháp phải dùng lời nói như hòa. Sao gọi là Lợi hành? là đối với người cầu tài và nghe pháp phải tùy theo những gì họ cầu mà đáp ứng đầ đủ. Sao gọi là Đồng lợi? là đối với người cầu tài và pháp phải dùng pháp Đại thừa tự lợi khiến an chỉ họ.
Hơn nữa, Bố thí có nơi gọi là xả tâm. Ái ngữ, là thực hành không giới hạn. Lợi hành, cuối cùng không hối hận. Đồng lợi, hồi hướng về Đại thừa. Hơn nữa, Bố thí là khởi lòng từ bi, thực hành xả bỏ tư hữu. Ái ngữ, không bỏ tâm hỷ. Lợi hành, trang nghiêm đại bi làm lợi chúng sanh. Đồng lợi, đối với trên dưới xả bỏ, phát tâm hồi hướng Nhất thiết chủng trí.
Hơn nữa, Bố thí, cầu tài như pháp, hành thí thanh tịnh. Ái ngữ, dùng từ hòa hướng dẫn, an chỉ vào pháp thiện. Lợi hành, nói về tự lợi, là để lợi ích mọi người. Đồng lợi, khiến mọi người phát tâm Nhất thiết trí. Hơn nữa Bố thí, phải xả cả trong lẫn ngoài. Ái ngữ, công đức trí tuệ, tâm không tham luyến. Lợi hành, bỏ tự lợi hành lợi tha. Đồng lợi, xả bỏ địa vị quan trong, tâm không hối tiếc.
Pháp thí, như những pháp đã được nghe tất phải diễn nói lại. Ái ngữ, không vì lợi dưỡng mà nói pháp. Lợi hành, khuyên bảo người độc tụng, tâm không biết mêt mỏi. Đồng lợi, nhất thiết trí là tâm được pháp vi diệu, tức là dùng pháp vi diệu này khích lệ chúng sanh.
Hơn nữa, pháp thí là nếu có chúng sanh nào mỗi lần nghe pháp, theo thứ tự vì họ mà nói không sai lầm. Ái ngữ, vì người nói pháp không từ xa gần. Lợi hành, có người cầu pháp, nên cung ấp, y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh khiến cho họ không thiếu, trước làm cho họ yên sau đó tùy theo sở cầu của họ mà diễn nói. Đồng lợi, Khi nào giảng thuyết cho mọi người thì phường phải khuyên chúng sanh hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: anuttara-samyak-saṃbodhi).
Hơn nữa, Pháp thí, đối với trong những pháp Bố thí thì Pháp thí là tối thắng, nên dùng pháp thắng này mà vì mọi người diễn nói. Ái ngữ, thường vì lợi ích chúng sanh mà nói. Lợi hành, tùy thuộc vào nghĩa của thuộc tính mà nói chứ không tùy theo văn tự. Đồng lợi, thường vì để hoàn bị Phật pháp đầy đủ nên nói.
Hơn nữa, Bố thí phải đầy đủ Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā). Ái ngữ, phải đầy đủ Thi-la Ba-la-mật (śīla-pāramitā). Lợi hành, phải đầy đủ Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā). Đồng lợi, phải đầy đủ Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā). Hơn nữa, Bố thí là mới phát khở Bồ-đề. Ái ngữ, là tu tập thực hành Bồ-đề. Lợi hành là không thối thất Bồ-đề. Đồng lợi là Nhấy sinh bổ xứ.
Hơn nũa, Bố thí là an trụ căn bổn chủng tử Bồ-đề. Ái ngữ, nuôi lớn mầm thân cành lá Bồ-đề. Lợi hành là từ từ triển khai ra hoa Bồ-đề. Đồng lợi, tự có khả năng thành tựu thật quả Bồ-đề. Đó gọi là Bồ-tát nhiếp hóa chúng sanh không thể tận.”
Qua kinh Đại Tập cho chúng ta thấy con đường thực hành Bồ-tát đạo của Bồ-tát phải lần lượt kinh qua Tứ nhiếp pháp, tùy theo nhu cầu thuộc tính của đối tượng chúng sanh mà Bồ-tát thực hiện Tứ nhiếp pháp để hoàn thành Giác hạnh viên mãn của mình khi còn là một Bồ-tát. Giai đoạn Bồ-tát hành Bồ-tát đạo là thời gian lòng từ phát triển đến cực độ, tất cả mọi hành vi mọi tạo tác của các Ngài đều phát sinh từ lòng từ vô hạn nhằm vào nỗi khổ triền miên của chúng sanh mà nhiếp phục hướng dẫn chỉ đường trở về chánh đạo giải thoát khổ đau, đó là những gia vụ đặc biệt của các Ngài. Điều này được thể hiện qua Luận Đại Trí Độ, được Bồ-tát Long Thọ triển khai sâu rộng hơn. Theo Luận Đại Trí Độ 65 thì mỗi Một Nhiếp pháp được phân ra làm hai chủ loại trừ pháp thứ tư: Như Bố thí thì có tài thí và pháp thí như trong các bản kinh, nhưng riên về ba nhiếp pháp sau cũng được Ngài phân ra mỗi nhiếp pháp có hai loại như sau: “Dùng hai loại tài thí pháp thí mà nhiếp hộ chúng sanh. Có hai loại Ái ngữ: Một, Ái ngữ tùy ý. Hai, Tùy theo chỗ ái pháp của chúng sanh mà nói. Khi Bồ-tát chưa đạt được đạo, khi gần gũi chúng sanh, Bồ-tát tự phá lòng kiêu mạn của mình, tùy ý mà nói pháp, hay nếu khi Bồ-tát đã đắc đạo rồi thì tùy thuộc vào pháp nên độ mà vì chúng sanh nói. Đối với người giàu có rộng lòng thì nên vì họ khen ngợi bố thí. Người phước đức nổi tiếng thường hay được lợi vật từ người khác, nếu vì họ mà khen ngợi việc trì giới, hủy báng việc phá giới thì tâm họ sẽ không vui thích. Như vậy phải tùy thuộc vào những thuộc tính của họ mà nói pháp. Lợi ích cũng có hai loại: Một, vì cái lợi đời này hay vì cái lợi đời sau mà vì họ nói pháp, vì là pháp đối trị cuộc sống nên siêng tu tập Lợi sự (hành). Hai, Nngu7o72i chưa tin dạy khiến họ tin, người phá giới khiến họ giữ giới, người ít hiểu biết khiến họ biết nhiều, người không bố thí khiến họ bố thí, người ngu si dạy họ trí tuệ. Cứ như vậy mà dùng pháp thiện lợi lạc chúng sanh. Đồng sự, Bồ-tát giáo hóa chúng sanh khiến họ cũng hành pháp thiệ nhnư mình; Bồ-tát tâm thiện, chúng sanh tâm ác thường xuyên giáo hóa họ khiến họ cũng giống như pháp thiện của mình. Đó là Bồ-tát dùng bốn loại nhiếp hóa chúng sanh khiến cho họ trụ vào mười thiện đạo.” Qua nhưng kinh luân mà chúng tôi trích dẫn ở trên, đó chỉ là một ít bản kinh luận tiêu biểu cho Tứ nhiếp pháp trong nhiều bản khác nữa, chúng cũng đủ nói lên tinh thần từ bi vị tha vong thân của các hàng Bồ-tát trong lúc thực hành Bồ-tát đạo của mình trong đó có cả thời quá khứ của đức Đạo sư nữa, đã nói lên được tính đặc trưng của pháp môn tu Tứ nhiếp pháp này dành cho các hàng Bồ-tát dù là ở vào thời nào trong quá khứ, tương lai hay hiện tại, pháp Tứ nhiếp được coi như là pháp tu lưỡng lợi cho cả tự và tha trong việc hoàn thành sứ mệnh giải thoát cao cả của mỗi chúng ta trong chức năng tự lợi lợi tha thể hiện giáo pháp đặc trưng của đức Đạo sư qua Từ bi, Trí tuệ và giải thoát.
Tóm lại, Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp mà đức Đạo sư đã dạ cho các hàng đệ tử của mình từ xuất gia cao nhất là các hàng Bồ-tát cho đến các hàng Thinh văn và các hàng đệ tử Bồ-tát tại gia cùng các hàng cư sĩ nam nữ tại gia, trong mỗi chức năng thuộc tính của mình mà theo đó tự lợi và lợi tha trong việc chuyển vận bánh xe chánh pháp đi vào giữa thế gian loài người kéo họ trở về với chánh đạo, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát. Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn Tiểu thừa và Bồ-tát Đại thừa sinh khởi lên lòng thân ái, và lòng từ bi để hướng dẫn chúng sanh hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất; chúng đáp ứng và thõa mãn được những nhu cầu tình cảm có được của họ mà diều dắt. Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hanh nguyện Bồ-tát của mình, một bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát. Tuy giữa Tiểu thừa và Đại thừa qua Tứ nhiếp pháp có những phương pháp sai khác nhau phát xuất từ từng thuộc tính căn cơ nên việc áp dụng tu tập cũng theo đó mà có được, nhưng trên đại thể vẫn mang dấu ấn tự lợi lợi tha trong chức năng hoàn thành việc tu tập của hành giả theo nhân quả hay duyên khởi mà thôi.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Tư, 7 tháng 10, 2009
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

Video-Phim

About Me

Ảnh của tôi
Vietnam
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.