Thinh Văn là chỉ cho các vị đệ tử của đức Đạo sư khi còn tại thế, nhờ nghe âm giáo dạy dỗ của đức Đạo sư mà các ngài chứng ngộ. Như vậy Thinh Văn có được do nơi sự thích nghĩa mà có từ Phạn ngữ śrāvaka được phiên âm là Xá-la-bà-ca dịch là đệ tử. Theo các nhà phát triển sau này thì Thinh Văn đã trở thành một trong năm thừa được các Ngài phân loại theo những lời dạy do đức Đạo sư nói ra trong vòng bốn mươi lăm năm, tuỳ thuộc vào căn cơ của đệ tử mà ứng hiện qua năm pháp môn đối trị chính, gọi là giáo lý nền tảng dùng để chuyên chở chúng sanh ra khỏi bờ mê chóng quay về bờ giác được các Ngài gọi là thừa, đó là:

1/ Pháp Tam quy ngũ giới, vận chuyển chúng sanh ra khỏi tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, còn gọi là hoả đồ, đao đồ, huyết đồ), tứ thú ( địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la) mà sinh về Nhơn đạo gọi là Nhơn thừa (manuṣya-yāna).

2/ Pháp Thập thiện, tứ Thiền, bát Định vận chuyển chúng sanh ra khỏi bốn châu trong Nhơn đạo (Nam thiệm bộ châu, Bắc câu lô châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu) mà đến các cõi trời gọi là Thiên thừa (deva-yāna).

3/ Pháp tứ Đế vận chuyển chúng sanh ra khỏi ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) đến nơi hữu dư Niết-bàn mà thành A-la-hán gọi là Thinh văn thừa (śrāvaka-yāna).

4/ Pháp thập nhị Nhân duyên vận chuyển chúng sanh ra khỏi ba cõi, đến nơi vô dư Niết-bàn mà thành Bích Chi Phật gọi là Duyên giác thừa (pratyeka-buddha-yāna).

5/ Pháp môn Bi trí của Lục độ vận chuyển chúng sanh ra khỏi cảnh giới ba cõi của ba thừa để đến Vô thượng Bồ-đề, bờ bên kia của Đại Bát Niết-bàn gọi là Bồ-tát thừa (bodhisattva-yāna). Ở đây Thinh văn thưa thuộc thừa thứ ba của năm thừa.

Theo Đại thừa Nghĩa chương 17 thì, danh nghĩa của Thinh văn được giải thích theo ba cách:

1/ Dùng nhân duyên đắc đạo để giải thích thì, các hàng đệ tử của Ngài nhờ nghe âm thính thuyết giáo của đức Đạo sư mà ngộ giải đắc đạo nên gọi là giải thích là Thinh văn.

2/ Dùng quán chiếu là pháp môn để giải thích, như Thập địa kinh luận 4 thì, chúng sanh, vì chỉ dùng danh xưng nên phải dùng âm thinh để nói, đối với âm thinh mà ngộ giải cho nên gọi là Thinh văn.

3/ Dùng ký thuyết (thọ ký) khi giáo người khác (đệ tử) mà giải thích, như kinh Pháp hoa 2, phẩm Tín giải thì, dùng âm thinh Phật đạo để khiến cho tất cả chúng sanh được nghe cho nên gọi là Thinh văn (nghe âm thinh).

Trong ba cách giải thích này thì hai cách giải thích trước là lối giải thích theo Thinh văn Tiểu thừa, còn lối giải thích thư ba là lối giải thích của Bồ-tát và, ở đây cũng tuỳ thuộc vào nghĩa của chúng mà gọi là Thinh văn.

Thinh văn nguyên chỉ cho đệ tử xuất gia của đức Phật khi Ngài còn tại thế và, sau khi đức Thế tôn thị tịch thì theo đà phát triển và phân loại của Phật giáo phát triển sau này nếu đi cùng với Duyên giác thì gọi cả hai là nhị thừa, nếu cả hai cùng đi với Bồ-tát thì gọi là tam thừa. Như trên chúng tôi đã nói Thinh văn lấy pháp tứ Đế làm đối tượng quán lý cùng tu tập ba mươi bảy phẩm đạo để đoạn trừ kiến tư hoặc, tiến lên tu tập để đoạn trừ hai hoặc (trần sa hoặc và vô minh hoặc) mà lần lượt chứng đắc bốn quả sa môn và, cuối cùng nhập vào Vô dư Niết-bàn. Giáo pháp đức Đạo sư nói riêng cho các hàng căn cơ Thinh văn nghe thì gọi là Thinh văn thừa, còn kinh đển ghi thuật lại những giáo thuyết đó thì gọi là Thinh văn tạng.

Trong các bộ kinh luận nói về Thinh văn thì có nhiều loại: có hai chủng loại, hoặc ba chủng loại, hay bốn chủng loại tuỳ thuộc vào kiến giải của các bộ phái phát triển vào lúc bấy giờ.

Theo kinh Giải thâm mật 2, trong phẩm vô tự tánh, tướng thì có loại thinh văn: Nhất hướng thú tịch Thinh văn và, Hồi hướng Bồ-đề Thinh văn.

Theo Nhập Lăng Già kinh 4 thì, có ba loại Thinh văn: Quyết định tịch diệt Thinh văn, Phát Bồ-đề nguyện thiện căn Thinh văn và, Hoá ứng hoá Thinh văn.

Theo Du già sư địa luận 73 thì có ba loại Thinh văn: Biến hoá Thinh văn, Thệ nguyện Thinh văn và, Pháp tánh Thinh văn.

Theo luận Pháp Hoa quyển hạ của ngài Thế Thân thì có bốn loại Thinh văn: Quyết định Thinh văn, Tăng thượng mạng Thinh văn, Thối bồ-đề tâm Thinh văn và, Ứng hoá Thinh văn.

Riêng theo Văn cú Pháp hoa quyển 4 phần đầu thì Thinh văn phân ra thành năm loại:

- Quyết định Thinh văn, nhờ tu tập theo Tiểu thừa giáo lâu ngày huân tập qua nhiều kiếp đã chín mùi mà nay chứng được tiểu quả, nên gọi là quyết định Thinh văn.

- Thối Bồ-đề Thinh văn, các ngài khi xưa vốn đã tu tập theo Đại thừa, đã huân tập tích trong việc tu đạo trong nhiều kiếp, nhưng vì trong lúc tu tập trong sinh tử trở nên mệt mỏi nhàn chán không tự thắng mình tinh tấn nổ lực vương lên từ sinh tử mà bị chúng làm mỏi mệt nên tâm đạo lớn của Đại thừa bị âm mòn thối lui, chỉ còm muốn chứng lấy tiểu quả mà thôi nên gọi là thối thất Bồ-đề Thinh văn.

- Ứng hóa Thinh văn, là chỉ cho chư Phật chư Bồ-tát vì muốn hóa độ cho hai loại Thinh văn trên nên bên trong bí mật mang hành nguyện Phật và Bồ-tát, bên ngòai thì mang hình tướng Thinh văn để động viện khích lệ hai hàng trên thấu hiểu rằng đạo lý Tiểu thừa chỉ làm cho con ng7ời của mình và mọi người trở nên chật hẹp trong việc tự tu, tự chứng thôi, mà không đem những sở học, sở tu, sở chứng của mình ra để giúp đỡ mọi người. Vì vậy nên các Ngài phải ngoài hiện thân tướng thinh văn, mà bên trong thì hành bồ tát hạnh đề giúp đỡ khuến khích động viên viên hai hàng Thinh văn kể trên phải vượt qua tiểu thừa để siêu chứng Đại thừa., cho nên gọi là Ứng hóa Thinh văn.

- Tăng thượng mạng Thinh văn, là chỉ cho các hàng Thinh văn chán chê sinh tử muốn lìa sinh tử, ham vui cảnh giới Niết bàn an vui, nên chỉ muốn tu tập giáo lý Tiểu thừa và, khi đã đạt được kết quả Niết-bàn an lạc của Tiểu thừa rồi cho đó là cõi niết-bàn an vui tuyệt đối đầy đủ, nên những gì chưa được các Ngài cho là đã đạt được, những gì chưa chứng đã cho rằng đã chứng rồi đối với Đại thừa, đó gọi là Thinh văn thượng mạng.

- Đại thừa Thinh văn, vì những âm thinh về Phật đạo khiến cho các ngài tất cả không có bất cứ vị nào khi nghe qua mà muốn trụ vào hóa thành (Niết-bàn của Tiểu thừa) mà tất cả đều quay về với lý thật tướng của Đại thừa cả, nên gọi là Đại thừa Thinh văn.

Những phân loại về Thinh văn có được ở trên là chúng tôi căn cứ vào nơi giáo nghĩa kinh luận của các nhà phát triển Đại thừa để thiết lập. Sự phân loại như vậy là do các nhà Đại thừa cũng căn cứ vào giáo nghĩa căn cơ mà đức Đạo sư khi còn tại thế đã giáo huấn theo trình độ nhận thức của từng loại chúng sanh, mà Ngài ban thuốc để đối trị với từng loại căn bệnh trong tu tập. Nhưng theo kinh luận Tiểu thừa như các bộ A Hàm cùng Phát trí luận, Lục túc luận v.v.. thì không thấy có sự phân loại Thinh văn thành nhiều loại như vậy, mà duy nhất chỉ có một Thinh văn là đệ tử xuất gia đã chứng bốn quả sa-môn hướng đến Niết-bàn tịch diệt ra khỏi ba cõi mà thôi. Trong thời kỳ đức Đạo sư còn tại thế Thinh văn được chỉ chung cho những vị đệ tử của Ngài, xuất gia cũng như tại gia đã vào hàng dự lưu Thánh chủng cho đến bốn quả Sa-môn và chứng đắc Niết-bàn đều gọi chung là Thinh văn cả, nhưng sau này khi đức Đạo sư vào Niết-bàn, trong thời kỳ phát triển giáo đòan và các bộ phái ra đời thì Thinh văn chỉ còn dành cho các vị xuất gia tu tập phạm hạnh mới gọi là Thinh văn, còn các hàng tục gia đệ tử thì trong kinh luận không thấy còn liệt kê họ vào thành phần Thinh văn nữa. Thinh văn theo các nhà Tiểu thừa thì chỉ có một chủng loại Thinh văn và, Thinh văn duy nhất dùng một thứ ngôn ngữ trong cuộc sống từ khi tu tập cho đến lúc chứng đắc Niết-bàn an ổn ra khỏi ba cõi như kinh luận Tiểu thừa ghi lại mà thôi.

Tóm lại, về ý nghĩa tu tập chứng quả Thinh văn thì giữa Tiểu thừa và Đại thừa không có sự sai khác nào trong việc định nghĩa và pháp tu tập để đưa đến đắc quả A-la-hán, nhưng chỉ có một sự khác biệt trong quan niệm về quả vị A-la-hán đã rốt ráo hay chưa rốt ráo thì, giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa không nhất trí trong việc này. Theo các nhà Tiểu thừa thì coi như quả A-la-hán là quả vị tột cùng của chúng ta, trong việc giải thóat khổ chứng đắc Niết-bàn an vui và, họ quan niệm muốn đạt đến Niết-bàn an vui tịch diệt thì, phải vượt ra khỏi ba cõi này để an trụ vào một cảnh giới an vui tịch diệt ngòai ba cõi này, trong khi các nhà Đại thừ thì cho rằng quả vị A-la-hán của các hàng Thinh văn chưa phải là cõi Niết-bàn an vui cứu cánh rốt ráo theo như những phân tích của họ trong ngũ thừa giáo mà đức Đạo sư đã phương tiện dạy cho chúng ta. Đó chỉ là cảnh giới tạm thời và, chúng sẽ bị vượt qua để đi đến Niệt bàn an vui tịch diệt của Phật quả sau này nữa và, trạng thái Niết-bàn anvui tịch diệt đó bất cứ ai cũng có thể đạt được hết ngay trong ba cõi thế gian này chứ không phải đi ra ngòai ba cõi này. Và cũng vì quan niệm như vậy nên Thinh văn trong sự phân loại của các nhà Đại thừa là căn cứ trên nền tảng giáo nghĩa năm thừa giáo mà có trong khi các nhà Tiểu thừa chỉ đến A-la-hán là quả chứng cuối cùng trong tu tập nên chỉ có một Thinh văn duy nhất và cùng một thứ ngôn ngữ duy nhất về Thinh văn mà thôi.



Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Năm, 8 tháng 7, 2010
0 nhận xét
categories: | | edit post



Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đoả phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrite), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa, … là chỉ cho những bậc cầu đạo, cầu đại giác, bậc có tâm lớn cầu đạo. Bodhi (bồ-đề), có nghĩa là giác (giác ngộ), là trí (trí tuệ), là đạo. Sattva (tát-đoả), có nghĩa là chỉ cho chúng sanh, hữu tình. Vậy nguyên ngữ Bodhi-sattva có nghĩa là giác ngộ chúng sanh, hữu tình, tức là Bồ-tát trong hiện tại, trên dùng trí cầu Bồ-đề vô thượng; dưới dùng bi hoá độ chúng sanh, hữu tình, tu tập thực hành các ba-la-mật, lợi mình, lợi người hai hành viên mãn; trong tương lai, các ngài sẽ thành tựu quả vị Phật. Bồ-tát cùng Thinh văn và Duyên giác gọi chung là ba thừa. Bồ-tát là cõi thứ chín trong mười cõi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu-la, Nhơn gian, Thiên thượng, Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật giới). Đối với các hàng Thinh văn, Duyên giác mà các ngài cầu Bồ-đề thì các ngài cũng được gọi là Bồ-tát; đặc biệt các vị đại thừa tu hành chỉ cầu vô thượng Bồ-đề thời gọi là ma-ha Tát-đoả phiên âm của maha-sattva tiếng Phạn, hay còn gọi là Ma-ha Tát, Bồ-tát Ma-ha Tát, Bồ-đề Tát-đoả Ma-ha Tát-đoả hay là Ma-ha Bồ-đề Chất-đế Tát-đoả …

Về danh hiệu thì có hai loại danh hiệu chung và riêng:

1/ Danh hiệu xưng chung cho Bồ-tát theo kinh điển thì rất có nhiều tên khác nhau tuỳ thuộc vào ý nghĩa tán thán tôn kính đối với các hành Bồ-tát như: Khai sĩ (bồ-đề Tát-đoả), Đại sĩ (Ma-ha Tát-đoả), Tôn nhơn (đệ nhất Tát-đoả), Thánh sĩ (Tắng Tát-đoả), Siêu sĩ (Tối thắng Tát-đoả) Thượng nhơn (thượng Tát-đoả) Vô thượng (vô thượng Tát-đoả), Lực sĩ (lực Tát-đoả), Vô song (Vô đẳng Bồ-tát) Vô tư nghì (Bất tư nghì Tát-đoả), Phật tử, Phật trì, Đại sư, Đại thánh, Đại công đức, Đại tự tại, Chánh sĩ, Thỉ sĩ, cao sĩ, Đại đạo tâm thành chúng sanh, Pháp thần, Pháp vương tử, Thắng sanh tử, Quảng đại Tát-đoả, Cực diệu Tát-đoả, Thắng xuất nhất thiết tam giới Tát-đoả, Thân nghiệp vô thất Ngữ nghiệp vô thất Ý nghiệp vô thất, Thân nghiệp thanh tịnh Ngữ nghiệp thanh tịnh Ý nghiệp thanh tịnh, Thân nghiệp vô động Ngữ nghiệp vô động Ý nghiệp vô động, Thành tựu Giác tuệ (dhīmat), Tối thượng chiếu minh (uttama-dyuti), Tối thắng chơn tử (jina-putra), Tối thắng nhậm trì (jinādhāra), Phổ năng hàng phục (vijetṛ), Tối thắng manh nha (jināṅkura), Dũng kiện (vikrānta), Tối thánh (pramāścarya), Thương chủ (sārthavāha), Đại danh xưng (mahā-yaśas), Lân mẫn (kṛpālu), Đại phước (Mahā-puṇya), Tự tại (īśvara), Pháp sư (dharmika).

2/ Danh hiệu riêng có được nhờ vào phát tâm Bồ-đề rộng lớn và công hạnh tu hành trải qua nhiều đời nhiều kiếp đã được lấy đó mà làm danh hiệu riêng để gọi mà có, như chúng ta thường độc tụng trong các kinh điển trong phần mở đầu của các bản kinh điển Đại thừa thường gặp trong phần “chúng thành tựu” thứ sáu, trong sáu cách thành tựu một bản kinh do Phật nói ra trong các bản kinh ngoài tứ chúng đệ tử thường xuyên có mặt đội khi, nếu đề tài nào liên quan đến các hàng Bồ-tát thì luôn luôn hiện hữu sự có mặt của các hàng Bồ-tát câu hội với năm trăm đại Bồ-tát, và Phổ Hiền Bồ-tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát lúc nào cũng làm thượng thủ. Tên của các ngài là:

Quang Diệm Tràng Bồ-tát, Tu Di Tràng Bồ-tát, Bửu Tràng Bồ-tát, Vô Ngại Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ly Cấu Tràng Bồ-tát, Nhựt Tràng Bồ-tát, Diệu Tràng Bồ-tát, Ly Trần Tràng Bồ-tát, Phổ Quang Tràng Bồ-tát, Ðịa Oai Lực Bồ-tát, Bửu Oai Lực Bồ-tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ-tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ-tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ-tát, Công Ðức Sơn Oai Lực Bồ-tát, Trí Quang ảnh Oai Lực Bồ-tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ-tát, Ðịa Tạng Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Tạng Bồ-tát, Tịnh Ðức Tạng Bồ-tát, Pháp Ấn Bồ-tát, Quang Minh Tạng Bồ-tát, Tê Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ-tát, Thiện Nhãn Bồ-tát, Tịnh Nhãn Bồ-tát, Ly Cấu Nhãn Bồ-tát, Vô Ngại Nhãn Bồ-tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ-tát, Phổ Quán Nhãn Bồ-tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ-tát, Kim Cang Nhãn Bồ-tát, Bửu Nhãn Bồ-tát, Hư Không Nhãn Bồ-tát, Hỉ Nhãn Bồ-tát, Phổ Nhãn Bồ-tát, Thiên Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ-tát, Ðạo Tràng Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ-tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ-tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Quan Bồ-tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ-tát, Trì Nhứt Thiết Như Lai Sư Tử Toà Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ-tát, Phạm Vương Kế Bồ-tát, Long Vương Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Hoá Phật Quang Minh Kế Bồ-tát, Ðạo Tràng Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Ðẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thuỳ Phúc Kế Bồ-tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ-tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ-tát, Ðại Quang Bồ-tát, Ly Cấu Quang Bồ-tát, Diệm Quang Bồ-tát, Pháp Quang Bồ-tát, Tịch Tịnh Quang Bồ-tát, Nhựt Quang Bồ-tát, Tự Tại Quang Bồ-tát, Thiên Quang Bồ-tát, Phước Ðức Tràng Bồ-tát, Trí Huệ Tràng Bồ-tát, Thần Thông Bồ-tát, Quang Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ma Ni Tràng Bồ-tát, Bồ Ðề Tràng Bồ-tát, Phạm Tràng Bồ-tát, Phổ Quang tràng Bồ-tát, Phạm Âm Bồ-tát, Hải Âm Bồ-tát, Ðại Ðịa Âm Bồ-tát, Thế Chủ Âm Bồ-tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ-tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ-tát, Chấn Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ-tát, Hàng Ma Âm Bồ-tát, Ðại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ-tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ-tát, Pháp Thượng Bồ-tát, Thắng Thượng Bồ-tát, Trí Thượng Bồ-tát, Phước Ðức Tu Di Thượng Bồ-tát, Công Ðức San Hô Thượng Bồ-tát, Danh Xưng Thượng Bồ-tát, Phổ Quang Thượng Bồ-tát, Trí Hải Thượng Bồ-tát, Phật Chủng Thượng Bồ-tát, Quang Thắng Bồ-tát, Ðức Thắng Bồ-tát, Thượng Thắng Bồ-tát, Phổ Minh Thắng Bồ-tát, Pháp Thắng Bồ-tát, Nguyệt Thắng Bồ-tát, Hư Không Thắng Bồ-tát, Bửu Thắng Bồ-tát, Tràng Thắng Bồ-tát, Trí Thắng Bồ-tát, Ta La Tự Tại Vương Bồ-tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ-tát, Tương Tự Vương Bồ-tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ-tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ-tát, Húng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ-tát, Bất Ðộng Tự Tại Vương Bồ-tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ-tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Âm Bồ-tát, Vô Ngại Âm Bồ-tát, Ðịa Chấn Âm Bồ-tát, Hải Chấn Âm Bồ-tát, Vân Âm Bồ-tát, Pháp Quang Âm Bồ-tát, Hư Không Âm Bồ-tát, Thuyết Nhứt Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ-tát, Thị Nhứt Thiết Ðại Nguyện Âm Bồ-tát, Ðạo Tràng Âm Bồ-tát, Tu Di Quang Giác Bồ-tát, Hư Không Giác Bồ-tát, Ly Nhiễm Giác Bồ-tát, Vô Ngại Giác Bồ-tát, Thiện Giác Bồ-tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ-tát, Quảng Ðại Giác Bồ-tát, Phổ Minh Giác Bồ-tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ-tát v.v… Năm trăm đại Bồ-tát như vậy câu hội. Mỗi vị Bồ-tát mang cho mình một danh hiệu riêng tuỳ thuộc vào hạnh nguyện và thành quả tu chứng mà có được trong việc thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh của riêng từng vị một. Như Bồ-tát Quán Thế Âm có được danh xưng là Đại từ Đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn ling cảm ứng Quán Thế Âm Bồ-tát cũng nhờ vào sự kết hợp giữa pháp tu và hạnh nguyện cứu khổ độ sanh mà có được danh xưng như vậy và, danh hiệu các vị Bồ-tát khác cũng như vậy,

Bồ-tát cũng tuỳ thuộc vào địa vị tu tập ngộ giải sâu cạn mà có thể phân ra nhiều chủng loại khác nhau. Theo kinh Bồ-tát Địa trì 8, phẩm Công đức Bồ-tát thì, được Bồ-tát phân ra làm mười:

- Chủng tánh (gotra-stha), ở đây, vị nào chưa được tâm thanh tịnh thì, gọi là Chủng tánh.

- Nhập (avatīrṇa), ở đây, vị nào đã phát tâm tu học thì, những vị đó thuộc vào loại Nhập.

- Vị tịnh (a-śuddhāśaya), ở đây vị nào đã nhập rồi nhưng chưa thông đạt được tâm địa thanh tịnh thì, gọi là chưa trong sạch (vị tịnh).

- Tịnh (śuddhāśaya), ở đây, vị nào đã nhập vào được tâm địa thanh tịnh thì, gọi là thanh tịnh.

- Vị thục (a-paripakva), ở đây, vị nào đã được tâm địa thanh tịnh, nhưng chưa nhập vào được địa cứu cánh thì, gọi là chưa chín mùi (vị thục).

- Thục (paripakva), ở đây, vị nào đã nhập vào địa cứu cánh thì, vị đó được gọi là chín mùi (thục).

- Vị định (a-niyati-patita), ở đây, vị nào đã nhập được vào địa cứu cánh rồi, nhưng chưa nhập vào địa của định thì, vị ấy chưa được gọi là chưa đạt định (vị định).

- Định (niyati-patita), ở đây, vị nào đã vào được địa của định thì, vị đó được gọi là đạt định.

- Nhất sinh (eka-jāti-pratibaddha), ở đây, vị Bồ-tát chỉ qua một lần sanh này tức sẽ lên Diệu giác quả vị Phật. Cho nên những vị Đẳng giác Bồ-tát đều được gọi là Nhất sanh bổ xứ cả, vì các vị Đẳng giác Bồ-tát hoặc vô minh chưa hết vẫn còn một phen biến dịch sinh tử.

- Tối hậu thân (carama-bhavika, hay antima-deha), ở đây, chỉ cho thân sau cùng trong sinh tử của hàng Bồ-tát Đẳng giác. Như vậy chúng ta thấy ở đây có sự liên hệ nhau giữa Nhất sinh và thân tối hậu cùng có một nghĩa như nhau về mặt thời gian.

Ngoài mười chủng loại như trên Bồ-tát còn phân ra làm hai loại: Bồ-tát tại gia cùng xuất gia, Bồ-tát thối chuyển cùng bất thối chuyển, Bồ-tát sinh thân cùng pháp thân, Bồ-tát nhục thân sinh tử cùng sinh thân pháp tánh, Bồ-tát đốn ngộ cùng tiệm ngộ, Bồ-tát đã phát tâm lâu (đại lực) cùng mới phát tâm, Bồ-tát trí (trí tuệ) tăng cùng bi (từ bi) tăng v.v…

Theo Pháp tướng tông chủ trương thì trí tuệ tăng cùng từ bi tăng có sự liên hệ đến sự phân loại Bồ-tát từ “bát địa” trở về trước thẳng đến bồ-tát (bồ-tát đốn ngộ), sau khi hàng phục hết thảy mọi thứ phiền não chướng sinh khởi hiện hành thì lập tức lãnh thọ thân biến dịch, thành tựu trí tăng thượng Bồ-tát; đến sau khi hàng phục hòan tòan tâm của địa thứ bảy thì sẽ thọ thân phân đọan, thành tựu bi tăng thượng Bồ-tát hoặc là Đại bi Bồ-tát. Đối với các hàng Bồ-tát hồi tâm (Bồ-tát tiệm ngộ) mà nói thì, từ “bất hòan” cùng với hồi tâm A-la-hán, cần tăng trưởng trí tuệ để đối trị việc đọan phiền não của dục giới; riêng từ “dự lưu” cùng với các hàng hồi tâm “nhất lai” thì có thể cần trí tăng thượng hay bi tăng thượng tùy thuộc vào việc đối trị và lòng thể hiện tình thương của họ mà thể hiện. Tuy nhiên giai đọan này vẫn có Bồ-tát phát triển hai mặt trí và bi cân bằng. Lúc này các hàng Bồ-tát nào ở vào vị Thập tín thì gọi là Bồ-tát mới phát tâm.

Trong thời gian thượng cầu Phật đạo, tức là Bồ-tát phát tâm tu hành để tự đem lợi về cho chính mình thì, thời gian này gọi là Bồ-tát hành, nên Bồ-tát luôn quan hệ đến tất cả các phương pháp, pháp tắc nghi thức những lời dạy tu hành của đức Phật dành cho các vị Bồ-tát, để tiến đến mục tiêu cuối cùng là đạt quả vị Phật phải qua cỗ xe được gọi là Bồ-tát thừa; và những kinh điển dành riêng cho các hàng Bồ-tát được gọi là Bồ-tát tạng. Như kinh Phạm Võng chẳng hạng đức Phật cũng dùng giới luật để cho các hàng Bồ-tát thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý phải qua việc hành trì Bồ-tát giới.

Nói tóm lại, Bồ-tát là quà vị, cõi thứ chín trong mười cõi. Cõi sắp hòan thành sự nghiệp tự mình giác ngộ cho chính mình và, đồng thời cũng giác ngộ cho người khác cũng giống như mình trong sự nghiệp hạ hóa chúng sinh, để hòan thành sự nghiệp giác hành viên mãn thành Phật. Bỡi vậy trong lúc Bồ-tát hành đạo, vì đặt vấn đề giải thóat tối hậu cuối cùng trên hết, mặc dù việc hạ hóa chúng sinh không phải là việc thứ yếu nhưng chúng vẫn quan trọng cần thiết trong việc hổ trợ mục đích cuối cùng là thành Phật, nên các ngài luôn luôn cho dù bị lệ thuộc vào phát nguyện lớn là cứu độ chúng sinh, nhưng việc làm của các Ngài không bị chúng sinh trói buộc lôi kéo qua việc không tạo nhân sinh tử, mặc dù các ngài luôn sống trong nhân quả. Vì nhân quả chỉ bị lệ thuộc vào ba cõi sáu đường của thiện ác báo ứng, trong khi Bồ-tát ra khỏi được ba cõi sáu đường, nên bồ-tát hành của các ngài bằng vào nguyện lực vượt thóat nghiệp lực nhân quả với không tâm tác nhân nên nếu quả có nhận đi chăng nữa cũng là không quả vô cầu. Đó là chúng ta đứng về mặt Bồ-tát mà luận thì Bồ-tát không tạo nhân, cho nên không nhận quả; nhưng nếu đứng về mặt nhân quả chúng sinh mà luận thì Bồ-tát rất sợ nhân, nên các Ngài không bao giờ tạo nhân dù là thiện nhân đi chăng nữa. Vì thiện nhân cũng vẫn còn ở trong vòng sinh tử luân hồi, nên các Ngài vì sợ nhân sinh tử luân hồi nên không tạo nhân. Ngược lại với Bồ-tát chúng sinh thì sợ quả, vì chúng sinh mê mờ nên không nhận thức được việc làm của mình là câu hữu với vô minh, nuôi lớn ba độc tham sân si vun trồng bản ngã, nên không thấy được cái tác hại của những hành động của mình (nhân), nên tạo ra mọi nguyên nhân để nuôi lớn bản ngã vô minh tà kiến của mình mà không biết được cái tác hại của chúng sẽ đến sau đó. Cho nên chúng sinh cứ mặc tình mặc sức tạo ra mọi tác nhân để rồi sau đó nhận lãnh mọi hậu quả tác hại đến bản thân mình thì lúc này mới bật ngửa ra biết là những việc làm trước kia của chúng ta là tai hại qua cái quả mang lại khổ đau trong hiện tai rồi mới đâm ra sợ quả mà mình đang gánh chịu! Bỡi vậy cho nên chúng ta thường nghe mọi người nói là: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.” Là phát xuất từ quan điểm này. Thật ra Bồ-tát đâu có còn tạo nhân bằng hữu tâm nữa mà sợ nhân, nhưng về mặt chúng sinh mà luận thì tạm thời chúng ta chấp nhận quan điểm này cũng không sao.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Hai, 14 tháng 6, 2010
0 nhận xét
categories: | | edit post


Đây la sáu phương pháp thực tiễn tu tập dành cho các hàng đệ tử của đức Đạo sự từ tại gia cũng như xuất gia và, nhất là dành cho các hàng Bồ-tát tu tập muôn hạnh trong việc tự độ và độ tha; có nơi còn gọi là Lục độ vạn hạnh. Lục ba-la-mật gọi đủ là Lục Ba-la-mật-đa. Ở đây, Lục Ba-la-mật-đa được dịch nghĩa cùng phiên âm từ chữ Phạn Ṣaṭ parāmitā; ṣaṭ có nghĩa là sáu, còn parāmitā được phiên âm là Ba-la-mật-đa có nghĩa là vượt qua (độ), đến bờ bên kia, tức là chỉ cho sáu phương pháp để hành giả tu tập đến bờ bên kia (từ bờ mê đến bờ giác); Parāmitā còn có những nghĩa: Tuyệt đối, nghĩa hoàn toàn, rốt ráo, thành tựu, có nghĩa là đạt thành lý tưởng mà hành giả đã đặt ra cho mình, là hoàn thành mọi ý nguyện, đó chính là mục tiêu cuối cùng của các hành giả thực hành con đường Bồ tát của mình qua sáu phương pháp vừa tự lợi và lợi tha. Sáu phương pháp này có khả năng độ thoát biển khổ sinh tử đạt đến thường lạc Niết-bàn của bờ bên kia theo nghĩa tương đối. Theo Lục Độ Tập kinh quyển 1 thì: “Chư Phật biết chúng sanh khó đuổi kịp hạnh cao, nên vì họ nói sáu độ vô cực của Bồ-tát đề họ mau được làm Phật. Sao gọi là sáu? Một là Bố thí, Hai là Trì giới, Ba là Nhẫn nhục, Bốn là Tinh tấn, Năm là Thiền Định, Sáu là Minh độ vô cực (Trí tuệ Ba-la-mật).” Sáu Ba-la-mật chúng ta gặp rải rác trong khắp các văn bản Kinh, Luật, Luận trong Tạng Đại Chánh Tân Tu. Trong đó, Lục Độ Tập kinh, Lục Ba-la-mật kinh v.v…, toàn kinh đều giảng rộng về về hành Lục Độ; ngoài ra, những kinh khác như kinh Đại Bát Nhã 5, 7, 9 phần cuối, Luận Đại Trí Độ 11 phần cuối cũng đều tường thuật rõ ràng về chúng, đó là pháp môn cực kỳ trọng yếu của kinh điển Đại thừa Phật giáo. Về ý nghĩa của Lục Độ này được lược thuật như sau:

1 – Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā), hay còn phiên Đà-na Ba-la-mật, người Trung quốc dịch nghĩa phiên âm là Bố thí ba-la-mật, hoặc Bố thí đáo bỉ ngạn, Thí ba-la-mật, Bố thí độ vô cực. Cũng dịch là bố thí hoàn toàn tuyệt đối, hay hoàn thành Bố thí, trong đó có cả ba loại Tài thí, Pháp thí và, Vô úy thí.

2 – Thi-la Ba-la-mật (Śīla-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm là Trì giới Ba-la-mật, hay còn gọi là Giới độ vô cực. Cũng có nghĩa là tuyệt đối, trì giới hoàn toàn, hay hoàn thành trì giới, tức là chỉ cho việc trì giữ luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới, chúng có khả năng đối trị nghiệp ác khiến cho thân và tâm thanh tịnh.

3 – Sàn-đề Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm là Nhẫn nhục Ba-la-mật hay An nhẫn Ba-la-mật, Nhẫn nhục độ vô cực. Cũng dịch là tuyệt đối, an nhẫn hoàn toàn, hay hoàn thành nhẫn, tức là chỉ cho việc tu tập nhẫn nại oán hại, An nhẫn chịu khổ, xét kỹ pháp nhẫn có khả năng đối trị sân nhuế, khiến tâm trụ vào an ổṇ

4 – Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm là Tinh tấn Ba-la-mật, hay Tinh tấn độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn tinh tấn, hoàn thành tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Tinh tấn siệng năng tu tập các thiện pháp, hành đạo, lễ tụng, giảng thuyết, siêng giúp, khai hóa, tức là chỉ cho thân siêng năng tinh cần tu tập bố thí, trì giới thiện pháp và tâm siêng năng hành thiện đạo, tâm tâm liên tục miên mật siêng năng tu tập nhẫn nhục, thiền định trí tuệ. Cho nên tinh tấn cả khả năng về hai mặt thân và tâm để đối trị với căn bệnh lười biếng của ác pháp sinh trưởng các pháp lànḥ

5 – Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm Thiền định Ba-la-mật, hay Tịnh lự Ba-la-mật, Thiền độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, thiền định hoàn toàn, hay hoàn thành thiền định, tứ là chỉ cho sự tu tập tịnh lự hiện pháp lác trú, tịnh lự đưa đến thần thông, tịnh lự lợi lạc hữu tình, chúng có khả năng đối trị loạn ý, nhiếp giữ ý niệm đối tượng bên trong không cho chạy theo các duyên bên ngoài.

6 – Bát Nhã Ba-la-mật (prajñā-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm trí tuệ Ba-la-mật, hay Minh độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, trí tuệ hoàn toàn, hoàn thành trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng nghĩa, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si, biết rõ thật tướng các pháp hiện hữu và biến dịch.

Qua những tóm lược về ý nghĩa công dụng của Lục Ba-la-mật, cho hành giả chúng ta có một nhận thức cơ bản về cả hai mặt tự lợi và lợi tha cho cả hai Thừa của Phật giáo, tuy trên mặt căn cơ có sự sai biệt, nhưng về mặt tác dụng chúng vẫn có những giá trị nhân quả ngang nhau dù là đại hay tiểu, dù là tiêu cực hay tích cực, chúng vẫn mang lại cho hành giả những kết quả theo từng thuộc tính của chúng.



- Về Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā), ở đây được y cứ vào tâm từ bi mà thể hiện phước lợi cho mình và cho người. Bố thí vốn được phát xuất từ sự khuyến khích và hướng dẫn của chính đức Đạo sư cho các hàng Phật tử Ưu-bà-tắc tại gia thực hành pháp này về tài vật. Ý nghĩa vật chất của nó không ngoài dùng y thực cùng tất cả những vật thực khác có được cúng dường hay bố thí cho những vị có đức lớn và những người cùng khổ nghèo nàn; và cho đến thời kỳ Đại thừa phát triển thì bố thí là một pháp trong Lục Ba-la-mật, ngoài Tài thí ra còn thêm hai pháp nữa đó chính là Pháp thí và Vô úy thí đem tài vật, thể lực, trí tuệ ra bố thí rộng rãi cho người khác, vì người khác tạo phước thành trí mà cầu được công đức dần dần tích lũy trở thành to lớn, đó chính là một phương pháp tu hành đưa hành giả đi đến chỗ giải thoát. Theo Đại Thừa Nghĩa Chương 12 giải thích thì, nghĩa của Bố thí là dùng tài vật của mình mà phân phát cho người khác được gọi là Bố; còn tình thực mình ban ân cho người thì gọi là thí.

Mục đích Bố thí của các nhà Tiểu thừa là để dẹp trừ tính cò kè bớt một thêm hai cùng lòng tham cá nhân trong hiện tại, tạo ra tác nhân vì mình vì người mà hành thí khiến tránh khỏi cái hậu quả bần khốn trong đời vị lai, trong khi các nhà Đại thừa thì liên kết Bố thí với giáo nghĩa Đại từ đại bi tâm để tự cứu thoát mình cứu thoát mọi người. Người bố thí giúp đỡ tiền tài vật chất được gọi là Đàn Việt (dānapani, là chỉ cho người cúng dường, người giúp đỡ, ý dịch là người chủ bố thí, hay đàn-na chủ gọi tắt là Đà-na); còn của cải tài vật được đem ra bố thí gọi là của cải giúp đỡ, tài vật giúp đỡ, vàng bạc giúp đỡ, tiền tài giúp đỡ, nhà cửa giúp đỡ (Nhà cửa cúng dường cho Tăng chúng), vật giúp đỡ phân chia, vật tín đồ cúng dường.

Bố thí có khả năng khiến cho con người xa lìa lòng tham, như chúng ta đối với Phật, Tăng cùng những người bần cùng mà cúng dường giúp đỡ y phục, đồ ăn thức uống, của cải vật chất thì cái hậu quả tất yếu là chúng ta sẽ chiêu cảm được quả báo hạnh phúc có được về vật chất sung túc dư giã sau này. Đó là đức Đạo sư chỉ mới dạy cho chúng ta tự thể hiện lòng từ qua bố thí vật chất, còn về mặt tinh thần trong đó bố thí cũng được vì mọi người hướng dẫn tuyên giảng về chánh pháp khiến cho người ta chỉ ác hành thiện không những chỉ đạt được công đức lợi mình lợi người mà còn sinh về nơi nhân thiên hưởng lạc quả sau này qua Pháp thí, đức Đạo sư không những chỉ dừng lại ở đó mà còn khiến cho mọi người ly khai xa lia lòng sợ hãi do vô minh mang lại làm cho chúng ta không làm chủ được vận mệnh của chính mình mà phải đem giao phó cho những thần linh không biết bên ngoài làm chủ, đó chính là đem lại cho mọi người lòng vô úy không sợ hãi mà đức Đạo sự gọi pháp này là Vô úy thí. Giữa ba cách bố thí này sự khác nhau hiển nhiên về giá trị vật chất và tinh thần với nhau mà chúng còn khác nhau trên mặt đánh giá tiêu cực và tích cực trong ý nghĩa thế gian và xuất thế gian. Ngay đến Bố thí, nếu bố thí với mục đích vì để xa lìa lòng tham và để khai ngộ việc chỉ ác hành thiện thì được gọi là thanh tịnh thí, còn nếu ngược lại mà bố thí thì bố thí này gọi là bất thanh tịnh thí. Đối với Pháp thí, giá trị nội hàm của chúng cũng tùy thuộc vào thuộc tính của chính chúng, có nghĩa là Pháp thí chỉ dạy mọi người pháp sinh về Nhơn-Thiên Pháp thí thế gian, còn giáo pháp dạy người làm Phật thì gọi là Pháp thí xuất thế. Ngoài Tài thí và Pháp thí thông thường ra, riêng Bố thí Ba-la-mật cũng tùy thuộc vào thời gian mà khu biệt có hai loại. Loại thứ nhất được gọi là Bố thí, theo kinh Ưu-bà-tắc giới 2 thì, việc hành Thí của các hàng Thinh Văn, Duyên Giác, Phàm phu, ngoại đạo cùng việc hành thí của các hàng Bồ-tát ở vào thời gian sơ hay nhị A-tăng-kỳ kiếp thì vẫn còn gọi là Thí; còn các hàng Bồ-tát từ đệ tam A-tăng-kỳ kiếp trở lên mà hành thí thì gọi là Thí Ba-la-mật. Theo kinh Bồ-tát Thiện Giới 1, phẩm tự thì, các hàng Bồ-tát tại gia hành Tài thí cùng Pháp thí, còn các hàng Bồ-tát xuất gia hành Tứ thí: bút thí, mặc thí, kinh thí và, thuyết pháp thí, trong khi các hàng Bồ-tát Vô sanh nhẫn thì chỉ hành có Cụ túc thí, Đại thí và, Vô thượng thí thôi. Theo Câu Xá luận 18 thì có 8 loại Bố thí: Tùy chí thí, Bố úy thí, Báo ân thí, Cầu báo thí, Tập tiên thí, Yếu danh thí, Vị trang nghiêm tâm đẳng thí. Cũng trong luận này đưa ra bảy loại thí khác nữa: Thí khách nhơn, Thí hành nhơn, Thí bệnh nhơn, Thí thĩ bệnh giả, Thí viên lâm, Thí thường thực, Tùy thời thí. Theo kinh Hoa Nghiêm 12 có 10 loại thí: Tu tập thí, Tối hậu nạn thí, Nội thí, Ngoại thí, Nội ngoại thí, Nhất thiết thí, Quá khứ thí, Vị lai thí, Hiện tại thí, Cứu Cánh thí. Đó là những sự sai biệt tùy thuộc vào nội hàm của những thuộc tính mà theo các kinh luận đưa ra về nội dung, thái độ, cùng mục đích không đồng của chúng, nên có những phương thức phân loại như vậy. Hơn nữa nếu chúng ta căn cứ vào thật tướng Duyên Khởi của các pháp để đánh giá thì tự chúng: Người thí, người nhận, vậy được bố thí cà ba từ bản chất của chúng vốn là Không, không tồn tại bỡi luật vô thường tác dụng chi phối, nên Tánh, tướng chúng vốn không, vốn như huyễn chúng ta căn cứ vào đâu để mà chấp phá. Vì vậy cho nên gọi là ba luân thể không, ba luân thanh tịnh là vậy.



- Về Thi-la Ba-la-mật (Śīla-pāramitā), nguyên ngữ căn của động từ √īl có nghĩa là hành vi, động tác khi chuyển sang danh từ thì nó chỉ chung cho mọi hành vi, hay tập quán, tính cách, đạo đức của con người. Thi-la Ba-la-mật là hành giới của Lục Ba-la-mật được đức Đạo sư y cứ vào việc làm, hành vi các đệ tử của mình, nếu không phù hợp với chánh pháp thì theo đó mà Ngài chế định giới cấm, khiến cho đệ từ của Ngài sau đó không được phạm vào những điều giới đã ngăn cấm đó nữa. Với mục đích là ngăn ngừa những điều sai lầm, đình chỉ những việc làm xấu xa không phù hợp với chánh pháp. Ngoài những ý nghĩa như trên ra Thi-la Ba-la-mật, theo Tạp A-tỳ đàm tâm luận 10 thì nó còn có những nghĩa như: Tu tập, Chánh thuận, Tam-muội, Thanh lương cùng an giấc; còn theo luận Đại Tỳ-bà-sa 44 thì lại có mười nghĩa sau: Thanh lương, yên giấc, luôn tập, đạt định, Toại đăng (đường hầm lên núi), Gương sáng, Bậc thềm, Tăng thượng, Đứng đầu. Nhưng ở đây, đối với Thi-la Ba-la-mật thì nó có nghĩa là Thanh lương, mát mẻ mà nói, vì tội của ba nghiệp thân-khẩu-ý hay khiến cho người tu hành sinh phiền não nóng nảy bực bội, mà giới thí có khả năng đình chỉ và làm dịu mát đi những phiền não bực bội nóng nảy đó, làm cho hành giả đạt được mọi sự an vui, cho nên Thi-la ở đây có nghĩa là Thanh lương. Ngoài ra cũng có rất nhiều văn bản trong kinh luận có sự giải thích khác nhau, nhưng đó chỉ là những giải thích tùy thuộc vào thuộc tính của nhũng đối tượng cần được giải thích như vậy, cho phù hợp với căn cơ của đối tượng đó.Ttuy nhiên dù có giải thích như thế nào đi nữa thì, ý nghĩa cơ bản của chúng cũng không mất đi giá trị chính của nó là: phòng ngửa tội lỗi và đình chỉ mọi việc ác không làm, đó là ý nghĩa chính của nó. Vì vậy cho nên việc trì giới rất quan trọng đối với con đường giải thoát khổ đau, nếu không trì giới mà đòi giải thoát khổ đau được là điều không thể có được trong giới pháp của Ngài. Vì hành giả đến với đức Phật là đến để thực hành giải thoát chứ không phải đến với đức Phật để hiểu và biết giới pháp giải thoát là thế nào! Ở đây việc giữ giới thật là quan trọng nếu hành giả muốn thoát khổ. Trong việc trì giới mà hành giả không hiểu và thấu suốt được bốn việc phải làm của hành giả trong khi trì giới thì kể như việc trì giới không thành công. Bốn việc đó là: Chỉ là trì, Tác là phạm; Tác là trì, Chỉ là phạm”

Tại sao gọi Chỉ là trì? Trước hết, chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa của bốn việc làm này. Thứ nhất chữ Chỉ có nghĩa là dừng lại, còn chữ Trì có nghĩa là giữ lấy. Vậy trong câu đầu có nghĩa là hãy dừng lại tất cả mọi việc làm ác hại mình hại người không làm thì đó gọi là chỉ, khi mà chúng ta dừng không làm các việc ác thì chính lúc đó là lúc hành giả đang trì giữ giới mà mình đã thọ cho nên dừng không làm ác được gọi là trì giới hay là giữ giới. Thứ hai sao gọi Tác là Phạm? Ở đây Tác có nghĩa là làm, là hành động, còn chữ Phạm có nghĩa là phạm vào giới Phật đã cấm. Vậy trong câu thứ hai có nghĩa là hành giả đã làm những việc, những giới điều Phật đã cấm không cho làm: Như không cho sát sanh mà hành giả sát sinh, không cho trộm cắp mà hành giả trộm cắp … thì việc làm hay hành động đó gọi là Phạm giới. Thứ ba sao gọi Tác là Trì? ở đây chữ Tác có nghĩa là làm, hành động, tạo tác, còn Trì là giữ lấy, giữ giới. Vậy câu thứ ba này có nghĩa là khi hành giả đã làm việc hay tạo tác việc giữ giới, không làm ác; tuy có vẻ tiêu cực nhưng thực chất là chúng ta đang trì giữ giới cấm, có nghĩa là chúng ta không làm ác, chính lúc đó là lúc chúng ta đang tạo việc thiện rồi. Đó là chúng ta nói theo mặc tiêu cực, còn nếu chúng ta nói theo nghĩa tích cực thì không tạo ác mà chúng ta hành thiện. Ở đây vì nhờ có không tạo ác nên chúng ta trở nên trong sạch, mà khi chúng ta trở nên trong sạch chính là lúc chúng ta đang trì giới vậy, cho nên gọi Tác là Trì là vậy. Thứ tư sao gọi Chỉ là Phạm? Ở đây Chỉ cũng có nghĩa là dừng lại, đình chỉ không tạo tác, còn Phạm có nghĩa là phạm vào giới cấm. Nếu hành giả đình chỉ không làm: trước là giữ giới, sau nữa là làm việc thiện lợi mình lợi người mà không làm thì coi như phạm giới trong việc chỉ ác hành thiện. Đó là ý nghĩa của bốn câu buộc hành giả phải tyho6ng hiểu một cách thấu đáo thì, việc trì giới chúng ta mới đưa đến thành công trong việc giải thoát khổ mà đạt Niết-bàn an lạc được.

Giới nguyên chỉ là những lời răn của đức Phật đối với các đệ tử của Ngài, tùy theo thời, theo chỗ phạm của đệ tử mà chế định ra những nguyên tắc khuyên răn. Khởi đầu Ngài chỉ tuyên dạy là :”Các việc ác chớ làm …” Nhưng sau đó do vì Tăng chúng dần đông và cuộc sống vì vậy trở nên phức tạp hơn, sản sinh ra những hành vi không hợp với chánh pháp, nên theo đó giới mới bắt đầu được Ngài chế ra theo sau những tạo tác phi pháp đó, mỗi ngày mỗi tăng lên nhiều theo thời giaṇ, tùy thuộc vào những tướng phạm đó mà chúng trở nên phức tạp hơn. Trong lúc này giáo đoàn của đức Phật gồm có bảy chúng đệ tử, theo đó giới cũng được tùy theo chỗ phạm và căn cơ của họ mà tùy chế nên giới cũng được phân ra theo đó mà có Giới của các bậc xuất gia, giới của các vị tại gia như trong luật tạng ghi lại. Tuy là bảy chúng và tùy thuộc vào đó mà Ngài chế nên có sự khác nhau về tướng trạng của giới điều trên chi tiết, nhưng trên mặt đại thể thuộc tánh giới thì cho dù xuất gia hay tại gia cũng đồng một, chúng chỉ khác nhau trên mặt Giá giới mà thôi. Vì mục đích của Giới là đưa hành giả đến chỗ giải thoát khổ đau đạt an vui tịch tĩnh dù là xuất gia hay tại gia thì việc thực hiện giới, cuối cùng cũng chỉ nhằm đến việc thanh tịnh hóa ba nghiệp tham sân si để đưa đến cứu cánh Niết-bàn an lạc chung cuộc, nhanh hay chậm cũng tùy thuộc vào giới tướng mà chúng ta nhận lãnh và thọ trì có kết quả hay không mà thôi.

Căn cứ vào phần 1 Luật Tứ phần hành sự sao quyển trung nói về thuyết pháp thì giới được phân ra làm bốn gồm có: Giới pháp, Giới thể, Giới hành và Giới tướng. Ở đây Giới pháp chỉ cho những điều giới được đức Đạo sư chế định ra như không sát sinh, không trộm cắp v.v… tất cả những giới dùng để ngăn cấm các pháp bất thiện đó chúng làm cơ sở cho mọi quy củ cùng mọi giới hạn phòng ngửa cho hành giả trong thực hành qua chỉ ác hành thiện, trong đó chúng có cả Tiểu thừa giới và Đại thừa giới riêng biệt. Giới thể chỉ cho cái thể của giới có được sau khi hành giả thọ trì Giới pháp, sự có được này chúng pháp xuất từ những tác dụng của việc phòng ngừa tội lỗi cùng việc thực hành đình chỉ các việc ác không làm nữa. Giới hành chỉ cho những hành vi động tác của ba nghiệp thân khẩu ý chúng không chống trái với các pháp sau khi hành giả làm phát sinh được Giới thể. Giới tướng chỉ cho tướng trạng của việc trì giới, tức là chỉ cho tình trạng của việc trì giới hay phạm giới có được trong thực hành của hành giả. Cũng theo luật Tứ Phần hành sự sao phần 1 quyển thượng thì, Bàn về Giới pháp tức là chúng ta bàn về pháp ngữ, chúng không thuộc về phàm hay là Thánh, mà chúng ta nói thắng rõ ràng về pháp này, thì chúng chính là con đường xuất ly khiến cho người thọ trì tin, biết là có nó. Bàn về Giới thể nếu dựa vào chỗ phát ra nghiệp thể mà luận một cách rõ ràng thì đó chính là sự hiển bày thẳng sự lãnh nạp của tướng tâm qua tác dụng yết ma xong và giá trị tác dụng vô biểu của sự trì giới được thể hiện qua thân khẩu ý. Bàn về Giới hành chỉ cho khi hành giả đã dụng tâm thọ trì giới xong, tất phải cần phương tiện rộng tu, kiểm soát mọi hành vi oai nghi của thân khẩu, trước chuyên tâm khắc chí tôn sùng hâm mộ các bậc Thánh, sau khởi giữ tâm thuận nghĩa với trước gọi là giới hành. Bàn về Giới tướng chỉ cho hành tướng của mỗi oai nghi thành tựu, tùy theo sự việc mà thể hiện, mọi động tác đều xứng hợp với pháp, đức tốt sáng hiện, gọi là giới tướng. Trong bốn loại này Giới tướng tuy là một trong bốn loại, nhưng đồng thời cũng là tên chung của bốn loại, cho nên bảo giới tướng có nhiều đường là vậy. Vì khi còn tại thế đức Thế Tôn bao giờ cũng tùy thuộc vào tướng phạm của các đệ tử để mà chế ra giới tướng có nhiều có ít tùy thuộc vào các hàng đệ tử xuất gia của Ngài mà chế ra và họ cũng căn cứ vào những giới tướng này mà giùn giữ Giới.

Theo Luật Thập Tụng 11 Phật dạy thì, “Người trì giới, không phạm vào những giới điều mà Phật đã chế, theo Đại giới dạy thì người trì giới phải biết oai nghi, biết lúc nào nên hành xử, lúc nào không nên hành xử, cho đến phá giới nhỏ cũng sinh sợ hãi lớṇ” Đó là những điều kiện tối thiểu để cho hành giả biết rằng việc trì giới không phải chỉ biết giới không thôi, hay chỉ biết giới mình đã nhận lãnh là được rồi mà còn phải biết thực hành, đem giới áp dụng vào cuộc sống qua nên iết lúc nào nên hành xử và lúc nào không nên hành xử, như bốn việc mà chúng tôi đã đề cập bên trên và, điều cốt yếu của việc trì giới là hành giả nếu lỡ phá đi một giới cấm nào cho dù là nhỏ, như phải coi đó như là một việc trọng đại, chúng có thể phá đi toàn bộ con đường giải thoát của chính mình; hành giả phải nên đem lòng sợ hãi để tránh khỏi phải lập lại việc đã vi phạm.

Theo luận A-tỳ-đạt-ma Câu Xá 14 thì, Giới có khả năng chinh phục nghiệp ác nên gọi là Thi-la, từ để giải thích rõ ràng là thanh lương, như nói với người thọ trì giói thì tâm an vui, thân không nhiệt não, cho nên gọi là Thi-la. Ở đây Thi-la có nghĩa là mát mẻ (thanh lương), có nghĩa là luận này theo ý nghĩa ý nghĩa từ nhân qua quả theo nghĩa tiêu cực của chúng mà định nghĩa nhân và quả, nhận và quả vì thế không ngoài nhau theo nghĩa tích cực.

Theo luận Đại Trí độ 13, 25, 153 thì Thi-la có nghĩa là: “Làm tốt đường lành, không tự mình buông lung, đó gọi là Thi-la. Hoặc thọ giới hành thiện, hay không thọ giới mà hành thiện đều gọi là Thi-la cả.” Như vậy Theo luận Đại Trí Độ thì việc có thọ giới hay không có thọ giới, nhưng hành giả chỉ cần thực hành thiện hạnh thì cũng là Thi-la Ba-la-mật cả. Với luận Đại Trí độ cũng vậy giới được đồng hóa theo nghĩa tích cực của chúng, có nghĩa là hành vi thiện, không buông lung theo ác pháp thì đó chính là Thi-la. Đây đứng về mặt giá trị được đánh giá theo thời gian ngay trong hiện tại khi hành giả làm thiện ngay lúc đó Thi-la được thể hiện.

Những giá trị có được từ người giữ giới mang lại nếu thực hành giới từ việc đưa đến tươi mát an ổn cả thân và tâm cho hành giả trong cuộc sống hiện tại qua việc thanh tịnh hóa ba nghiệp đưa đến thoát khổ đạt an vui Niết-bàn như trê,n qua những bộ luật luận mà chúng tôi đã đưa ra, chúng còn có những giá trị tùy thuộc vào người trì giới có tinh tấn hay không thì, theo đó chúng cũng có những giá trị dưa đến sự thành tựu mọi thứ công đức rất nhiều như nhiều kinh luận đã thuật lại như: theo kinh Chánh Pháp Niệm xứ 22 thì: “Người trì giới, thường được ba thứ vui: Được khen ngợi, được tài vật, và sau khi mất sinh Thiên … và nếu người thích trì giới thời sẽ đạt đến Niết-bàn.” Hay theo luận Đại Trí Độ 13 thì: “Người trì giới an lạc đầy đủ, nổi tiếng khắp nơi, Trời người kính mến, hiện đời được nhiều khoái lạc, nếu muốn lên Trời hay sinh làm người sẽ giàu sang sống lâu, không bao giờ bị nạn.” Cũng theo Đại Trí độ luận thì nếu người trì giới thuộc hàng sơ sơ thì sẽ sinh làm người, còn bậc trng thì sẽ sinh lên Trời Lục dục, bậc thượng mà lại hành Tứ thiền, tứ không định sẽ sinh về cõi Trời Sắc, Vô sắc thanh tịnh. Trì giới bậc thượng có ba loại, trì giới hạ thanh tịnh thì đắc A-la-hán, trì giới trung thanh tịnh thì sẽ đạt được Bích-chi Phật, còn trì giới thanh tịnh bậc thượng thì sẽ được Phật đạo.”

Đó là những giá trí đích thực dành cho người trì giới sẽ đạt được trong hiện tại và trong tương lai cả vật chất lẫn tinh thần đều mang lại cho hành giả những lợi lạc khó có được nơi người không trì giới.



Về Sàn-đề Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), là phiên âm từ tiếng phạn Ksānti-paramita, nghĩa là nhẫn, an nhẫn, nhẫn nại, nhẫn nhục; là một chi trong Lục ba-la-mật, Thập ba-la-mật, có nghĩa là những gì khiến cho tâm chúng ta an ổn, kham nhẫn trước mọi não hại, mọi hủy nhục từ bên ngoài đưa đến và, cũng chỉ cho những khổ não, thống khổ thuộc về cả thân, tâm đều có khả năng kham nhẫn hết tất cả của con người đều gọi là nhẫn nhục. Theo Du-già Sư địa luận 57 thì, nhẫn nhục bao gồm cả ba loại hành tướng không phẫn nộ, không kết oán và, tâm không ôm lòng ác ý. Phật giáo rất đặt biệt chú trọng đến nhẫn nhục và, điều này luôn thể hiện hàng đầu trong giáo lý Phật giáo Đại thừa dành cho các hàng Bồ-tát khi thực hành hành nguyện của mình trong việc tự lợi cùng lợi tha qua Lục Ba-la-mật. Tuy hai thừa Thinh văn cùng Duyên giác cũng lấy nhẫn nhục trong pháp tu tập nhưng vì thuộc tính của chúng nhẫn chưa được nâng cao nên chì bó buộc trong phạm vi cá nhân là nhất trong khi các hàng Bồ-tát lấy nhẫn nhục để thử thách bước đường tu hành của mình trong lúc giao tiếp với tha nhân qua việc lợi tha nên nhẫn nhục được đặt lên hàng đầu, vì vậy cho nên sự khác biết của nó rất lớn.

Theo Thập tụng luật thì đức Đạo sư dạy các Tỳ-kheo đối với các hàng cư sĩ tại gia đến giúp đỡ chúng Tăng thì ngoài việ giảng dạy cho họ thông hiểu các pháp sâu xa phân biệt được chánh tà đạo cho họ mà Tỳ kheo còn phải giảng dạy về phương pháp thực hành Bố thí, trì giới, nhẫn nhục nữa: “Nếu các cư sĩ nào đến, thì nên vì họ mà nói pháp thậm thâm, chỉ rõ đâu là chánh đạo, tà đạo. Nên giảng về tri kiến thực hành bố thí, trì giới, và nhẫn nhục.” Đó là bổn phận của các Tỳ-kheo đối với các hàng cư sĩ tại gia phải phân biệt cho họ biết đường nào chánh đưa đến giải thoát, đường nào tà đưa đến khổ đau để tránh.

Theo Kinh Trường A-hàm 21 đức Đạo sư đã kể lại hạnh tu nhẫn nhục của chính Ngài khi còn là một Thiên đế Thích, đã từng bị vua A-tu-la người bại trận trong cuộc chiến giữa Chư thiên và A-tu-la mắng chửi khi đang còn bị trói. Cuộc đàm thoại giữa Thiên đế và người hầu của Thiên đế. Đại ý là vị hầu Thiên đế chê trách Thiên đế tại sao không trả lời lại trước những lời lẽ hủy nhục mắng chửi của Vua A-tu-la: Trước hết là sợ, tự thể hiện sự yếu kém của mình, sao lại phải nghe những lời ác; nay không triệt hạ đứa ngu thì sau khó nhịn, hãy đánh nó bằng gậy cho nó hối lỗi; hơn nữa Thiên vương im lặng vì sợ giảm đức trí, nhưng họ đâu biết cho là vua sợ hãi, nên đối đầu liều chết xúc phạm, muốn vua Thiên đế lùi lại như bò. Và chúng ta sẽ thấy được những gì mà vị Thiên đế đã trả lời lạ cho người hầu qua những bài kệ như sau:

“Ngu kia không thấy biết,

Bảo ta lòng sợ hãi.

Ta quán đệ nhất nghĩa:

Nhịn im là tối thượng.

Điều xấu trong các xấu:

Trong sân lại nổi sân;

Ở trong sân không sân,

Là chiến đấu tối thượng.

Con người có hai duyên,

Vì mình cũng vì người;

Mọi người có tranh tụng,

Ai không tranh là thắng.

Con người có hai duyên,

Vì mình cũng vì người;

Thấy người không tranh tụng,

Lại cho là ngu đần.

Nếu người có sức lớn,

Nhịn được người không sức;

Sức này là đệ nhất,

Là tối thượng trong nhẫn.

Ngu tự cho mình mạnh,

Sức này chẳng là sức;

Người mạnh nhẫn như pháp,

Sức này không ngăn được.

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lúc bấy giờ, Thiên đế Thích há là người nào khác sao? Không nên có ý nghĩ như vậy. Lúc ấy, Thiên đế Thích chính là bản thân Ta vậy. Vào lúc bấy giờ, Ta tu tập nhẫn nhục, không hành động nóng vội, thường thường khen ngợi người hay nhẫn nhục. Nếu có người trí nào muốn hoằng dương đạo của Ta, thì phải tu tập nhẫn nhục im lặng, chớ ôm lòng phẫn hận đấu tranh.( )” Theo đức Đạo sư thì mọi sự đấu tranh đều phát xuất từ lòng phẫn hận và, để đối trị lại lòng phẫn hận hành giả chúng ta phải dùng nhẫn nhục để nhổ tận gốc độc sân hân mới mong làm trong sạch được ba nghiệp, ví nhẫn nhục là một sức manh tối thượng không gì có thể ngăn được. Đó là những kinh nghiệm tu tập hành nhẫn nhục của đức Đạo sư khi cò là một chúng sanh ở cõi chư Thiên, Ngài đem ra kể lại cho các Tỳ-kheo đệ tử của Ngài cùng nhấn mạnh đế sức mạnh không gì ngăn cản được của hạnh nhẫn nhục.

Theo Tăng Nhất A-hàm 44 Phât kể lại cho Tôn giả A-nan về những kiếp xa xưa của đức Phật Tỳ-bà-thi thì, nhẫn nhục được chư Phật coi như là một thứ sức mạnh tối ưu trong việc giữ gìn thanh tịnh cuộc sống của chúng Tỳ-kheo trong vòng một trăm năm đầu khi cấm giới chưa được chế ra vào lúc bấy giờ:

“Chín mươi mốt kiếp có Phật xuất thế hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai, Chí chân, Đẳng chánh giác. Bấy giờ có ba hội Thánh chúng Hội thứ nhất, Thánh chúng gồm một trăm mười sáu vạn tám nghìn Tỳ kheo. Hội thứ hai, Thánh chúng gồm mười sáu vạn. Hội thứ ba, Thánh chúng mười vạn. Thảy đều A-la-hán. Phật thọ tám vạn bốn nghìn tuổi. Trong vòng một trăm năm, Thánh chúng thanh tịnh. Đức Phật ấy lấy một bài kệ làm cấm giới.

Nhẫn nhục là bậc nhất.

Phật nói Vô vi nhất.

Không vì cạo râu tóc

Sa-môn mà hại người.

“Bấy giờ, Đức Phật ấy chỉ nói một bài kệ này làm cấm giới trong vòng một trăm năm. Khi cấu uế đã phát sanh mới lập cấm giới.”( ) Ở đây sức mạnh của nhẫn nhục làm cuộc sống của chúng Tăng trở nên vô sự, vô sự là sự thể hiện thanh tịnh của chúng Tăng trong cuộc sống. Đó là những thể hiện vượt bực sức mạnh của lòng nhẫn nhục trong quá khứ của chính Ngài và Thánh chúng của chư Phật trong quá khứ. Nhưng đây chỉ là sự thể hiện theo giá trị của luật tắc nhân quả của pháp nhẫn nhục theo hữu lậu pháp còn giới hạn trong vòng đối đãi nhau, chứ chưa phải là hạnh nhẫn nhục vướt thoát của pháp nhẫn vô lậu giải thoát.

Theo Giới Kinh Ưu-bà-tắc 7, trong phẩm Sàn-đề Ba-la-mật thì sở hành của các hàng Nhị thừa về nhẫn nhục, tuy cũng là nhẫn nhục nhưng chẳng phải là Ba-la-mật, chỉ có sở hành các hàng Bồ-tát mới được gọi là nhẫn nhục Ba-la-mật. Vì sở hành của các hàng Nhị thừa chủ yếu về tự lợi tích cực hơn là tiêu cực nên đặt nặng trong vấn đề nhân quả, còn các hàng Bồ-tát mặt tích cực của họ là lợi tha đặt ra nhiều hơn, nên cần phải vượt qua khỏi nhân quả để hoàn thành Giác hành viên mãn, nên có nơi Ksānti-paramita còn dịch là nhẫn độ.

Theo phẩm Lục an nhẫn Ba-la-mật-đa trong kinh Đại thừa lý thú lục Ba-la-mật-đa 6 thì, dùng an nhẫn hành quán tất cả đều không, mới gọi là an nhẫn Ba-la-mật, còn an nhẫn khác không gọi là Ba-la-mật như an nhẫn phân biệt thiện ác của mình người thông thường không gọi là an nhẫn mà gọi là nhẫn nhục theo nhân quả. Kinh Giải thâm Mật 4, phẩm Địa Ba-la-mật-đa thì phân loại nhẫn nhục Ba-la-mật gồm có ba loại: Nại oán hại nhẫn (Chỉ khả năng nhẫn nhịn những điều oán hại của kẻ khác đối với mình), An thọ khổ nhẫn (Có khả năng nhẫn chịu mọi thứ khổ), Đế sát pháp nhẫn (có khả năng quán sát xét thật các pháp). Ngoài ra trong Thập Thiện hạnh cũng có nhẫn nhục hạnh, chỉ cho khả năng nhẫn nhịn tất cả mọi sự nhục nhã não hại mà không khởi lên tâm sân hận lúc hành giả tu hành. Như kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật 1 thì, “Vì Tâm không động cho nên đầy đủ Sàn-đề Ba-la-mật.” tức là khi hành giả đem tâm mình trụ vào chân lý thì sẽ không bị người khác não hại, hay mọi sự nhục mà làm cho động.

Nhẫn được phân ra làm nhiều loại: có hai như Sanh nhẫn cùng Pháp nhẫn; có ba như Nại oán hại nhẫn, An thọ khổ nhẫn, Đế sát pháp nhẫn; có bốn như Vô sanh pháp nhẫn, Vô diệt nhẫn, Nhân duyên nhẫn, Vô trụ nhẫn; có năm như Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sanh nhẫn, Tịch diệt nhẫn; có sáu như Tín nhẫn, Pháp nhẫn, Tu nhẫn, Chánh nhẫn, Vô cấu nhẫn, Nhất thiết trí nhẫn; có mười như Túy thuận âm thinh nhẫn, Thuận nhẫn, Vô sanh pháp nhẫn, Như huyễn nhẫn, Như diễm nhẫn, Như mộng nhẫn, Như hưởng nhẫn, Như điện nhẫn, Như hóa nhẫn, Như hư không nhẫn. Đó là các loại nhẫn được kinh điển phân ra làm nhiều loại và theo đó chúng khế hợp với từng loại căn cơ đáp ứng được những cách đối trị đối với những trường hợp câu hữu với chính chúng. Những định nghĩa theo từng thuộc tính, quan điểm thuộc từng lớp căn cơ tu hành của các hành giả tu hạnh nhẫn nhục; sự khác biệt đó phải được nhận thức một các rõ ràng khi người thực hành áp dụng vào tu tập mới mong đạt kết quả theo sở hành của mình được.



- Về Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm là Tinh tấn Ba-la-mật, hay Tinh tấn độ vô cực. Vīrya người Trung quốn phiên âm là Tỳ-lị-da, hay Tỳ-ly-da có nghĩa là siệng năng, tinh cần. Theo tiếng phạn thì động từ căn √Vīr, có nghĩa là chiến thắng, hay đình chỉ, còn tiếp vỹ ngữ “ya” được thêm vào do biến cách để trở thành danh từ trung tính mang ý nghĩa là tự kiềm chế mà siêng năng tu tập. Theo Trần Chân Đế thì khả năng diệt trừ lười biếng, và các pháp ác bất thiện gọi là “Tỳ-lị”; và thực hành không phóng dật làm tăng trưởng các pháp lành gọi là “da”( ). Theo Đại thừa nghĩa Chương 12( ) thì, Tỳ-lị-da có nghĩa là tinh tấṇ Pháp luyện tâm gọi là tinh; đạt tâm tinh chuyên gọi là tấn. Tinh tấn là pháp căn bản trong việc thực hành pháp tu của mọi người, nên trong pháp tu cơ bản của Nguyên thỉ Phật giáo thì tinh tấn là một chi tối quan trọng trong tám chi Thánh đạo và, trong pháp tu của các nhà Bồ-tát hành Đại thừa cũng lấy tinh tấn làm hàng đâu trong việc hành đạo của mình qua Lục ba-la-mật hay Thập Ba-la-mật. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Trước hết về sự tinh cần của thân trong việc nổ lực siêng năng tu tập các pháp thiện trong lúc hành đạo như lễ bái, độc tụng, giảng pháp và, làm trợ duyên khuyến khích hướng dẫn cho mọi người thực hành các pháp thiện như bố thí, trì giới v.v… Sau đến tự tâm hành giả nổ lực tinh cần thực hành thiện đạo, tâm hành giả lúc nào cũng miên mật liên tục hướng đến đạo Niết-bàn trong mọi nổ lực tinh tấn tu tập nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, đánh tan mọi sự giải đãi biếng nhác để làm tăng trưởng các thiện pháp một cách nhanh chóng hơn trên bước đường giải thoát khổ đau đạt an vui tịch diệt. Như vậy tinh tấn vốn là một độ rất ư là quan trong đối vối lục độ, hay thập độ và, cũng là một pháp cơ bản quan trọng đứng đầu trong sự thành tựu pháp tu của hành giả. Ở đây, cho dù pháp tu tốt hay dễ đến độ nào đi chăng nữa; nhưng hành giả thiếu tinh tấn nổ lực về thân và tâm thì pháp ấy cũng trở thành vô giá trị đối với mọi người.

- Về Hành tướng của tinh tấn tùy theo căn cơ và thuộc tính của từng đối tượng tu, nên theo đó chúng có những sự sai khác và không đồng nhau: Theo tâm sở thì gọi là siêng, tức chỉ cho tâm dõng mãnh dứt ác hành thiện, các nhà Câu Xá cùng Duy thức lấy tinh tấn làm một trong những pháp địa đại thiện. Hoăc nó cùng với dục, tâm, tư duy hiệp thành bốn như ý túc. Hoặc nó cùng với tín, niệm, định, tuệ hiệp lại thành năm căn năm lực. Hoặc nó cùng với dục, niệm, xảo huệ, nhất tâm hiệp thành ngũ pháp. Hoặc nó là một trong lục Ba-la-mật hành, hay thập ba-la-mật hành. Hoặc một trong thất bồ-đề phần pháp.

Theo Đại trí độ luận 16 thì tinh tấn thuộc tâm số pháp, siêng làm không trụ vào tướng, làm theo tâm cùng với tâm sanh khởi. Theo A-tỳ-đàm thì hoặc có giác có quán, hoặc không giác mà có quán, hoặc không giác không quán. Trong tất cả các pháp thiện thì siệng năng tu tập không biếng nhác thì gọi là tướng tinh tấn. Trong năm căn, thì tinh tấn gọi là tinh tấn căn, nếu căn này tăng trưởng thì gọi là tinh tấn lực, tâm có khả năng khai ngộ thì gọi là tinh tấn giác, trường hợp có khả năng đưa đến thành Niết-bàn Phật đạo thì gọi là chánh tinh tấn. Trong tứ niệm xứ thường hay liên hệ với tâm thuộc tinh tấn phần, trong tứ chánh cần nó là tinh tấn môn, trong tứ như ý túc thì dục tinh tấn chính là tinh tấn, trong lục ba-la-mật gọi là tinh tấn Ba-la-mật. Vì tính quan trọng và cần thiết của tinh tấn trong việc hoàn thành những pháp tu cho mọi hành giả nên tinh tấn trở thành như là hiện hữu trong mọi pháp tu đối trị mọi căn bệnh vậy và, theo đó cũng tùy thuộc vào từng chức năng mà mang ý nghĩa của chính chúng trong năm thừa: Nhơn, Thiên, Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát.

- Về chủng loại thì cũng được phân ra làm nhiều chủng loại cho phù hợp với thuộc tính của từng loại căn cơ mà đức Đạo sư phân chia theo đối tượng đối trị đó, do đó chúng cũng thuộc loại đa dạng, theo theo Đại Thừa Trang Nghiêm kinh luận 8 thì tinh tấn có sáu loại:

Một, Tinh tấn tăng giảm (hāniviṛddhi-vīrya): có trong Tứ chánh cần, dùng để giảm từ từ hai pháp ác và, cũng làm tăng dần hai pháp thiện.

Hai, tinh tấn tăng thượng (mokṣāddhipa-vīrya): có trong ngũ căn, làm nghĩa tăng thượng đối pháp giải thoát.

Ba, tinh tấn xả chướng (pakṣavipakṣa-vīrya): có trong ngũ lục, cho dù có bất cứ chướng ngại nào cũng không thể ngăn cản được.

Bốn, tinh tấn nhập chơn (praviṣta-vīrya): có trong Thất giác chi, để thành lập kiến đạo.

Năm, tinh tấn chuyển y (parivartaka-vīrya): ở trong tám chi Thánh đạo, là nhân chuyển y đưa đến cứu cánh lúc tu đạo.

Sáu, tinh tấn đại lợi (mahārtha-vīrya): ở trong lục Ba-la-mật, làm lợi cho tự mình và làm lợi cho người khác.

Chính vì sự hiện hữu cần thiết của tinh tấn trong mọi pháp tu nên tinh tấn cũng trở nên đa dạng và, có nhiều thuyết về tinh tấn: Theo Đại trang nghiêm thừa kinh luận 8 thì căn cứ vào căn cơ và pháp tu của người ba thừa mà đức Đạo sư phân ra làm ba phẩm năm loại tinh tấn riêng biệt: Tinh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát cho phù hợp với kết quả mà họ nhận được sau khi tu tập. Năm loại đó là:

Một, tinh tấn hoằng thệ (samnāha-vīrya), là muốn phát khởi thực hành.

Hai, tinh tấn phát hành (prayoga-vīrya), đang thực hành các pháp thiện trong hiện tại.

Ba, tinh tấn Vô hạ (alīna-vīrya), sẽ được kết quả lớn chứ không phải nhỏ nhặt.

Bốn, tinh tấn bất động (akṣobhya-vīrya), tức là những nỗi khổ của lạnh nóng v.v… khong làm hành giả lay động.

Năm, tinh tấn vô yểm (asaṃtuṣṭi-vīrya) không vì được kết quả chút ít mà cho là đủ.

Theo Đại phương quảng Thập luân kinh 8, trong Tinh tấn tướng phẩm thì tinh tấn chia ra làm hai loại: Thế gian và xuất thế gian tinh tấn khác nhau. Như Kinh Ưu-bà-tắc giới 7 dạy thì, tinh tấn của Bồ-tát xuất gia không khó bằng tinh tấn của Bồ-tát tại gia, vì Bồ-tát tại gia do vì kề cận với nhiều nhân duyên ác trói bộc nên rất khó tu trong việc thực hành siêng năng tinh tấṇ. Theo Đại Trí Độ luận 16 thì, đề cập rất rộng và nhiều về tinh tấn cả thân và tâm trong việc thực hành, nhưng hai việ này khác xa nhau. Theo kinh Giải thâm mật 4 trong phẩm Địa ba-la-mật-đa thì, tinh tấn có ba loại: Bị giáp tinh tấn, tinh tấn gia hành chuyển sanh thiện pháp, tinh tấn gia hành nhiêu ích hữu tình. Theo Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận 12 thì cũng có ba loại tinh tấn: Bị giáp, phương tiện và, nhiêu ích hữu tình; còn Thành Duy thức luận 9 thì, Bị giáp, nhiếp thiện, và lợi lạc tinh tấn. Ở đây tinh tấn bị giáp là chỉ cho sự phát tâm đại thề nguyện dõng mãnh cho việc thực hành tự lợi và lợi tha từ kiếp này sang kiếp khác thề không thối chuyển trong việc hoàn thành sự ngiệp giải thoát của mình; lúc khởi lên tâm niệm như vậy cũng giống như mặc áo giáp sắt xông trận vậy, có oai lực lớn vậy. Tinh tấn nhiếp thiện là chỉ cho việc tinh tấn tu tập và thực hành các pháp thiện. Tinh tấn lợi lạc, là chỉ cho vì việc lợi ích của tất cả chúng sanh mà tinh tấn không biếng nhác. Theo Nhiếp đại thừa luận quyển trung, Trần Chân Đế dịch thì,tinh tấn chia ra làm ba phẩm loại: tinh tấn cần dõng, tinh tấn gia hành, tinh tấn bất hạ nan hoại vô túc (tinh tấn vô khiếp nhược, vô thối chuyển, vô hí túc)

Theo Hoa Nghiêm kinh 24 thì phân làm mười loại tinh tấn: Bất chuyển, bất xả, bất nhiễm, bất hoại, bất yểm quyện, quảng đại, vô biên, mãnh lợi, vô đẳng đẳng, cứu nhất thiết chúng sanh và, nói về Bồ tát khi tu tập tinh tấn như vậy thì tâm trở nên ngay thẳng thanh tịnh, không mất tâm sâu xa, tin hiểu rõ ràng sắc bén, căn lành thêm lớn, xa lìa thế gian, bất tín cấu uế đều trừ sạch hếṭ. Ngoài ra, theo Du-già Sư địa luận 42, phẩm tinh tấn thì, chia ra làm 9 loại: Một, tinh tấn tự tánh. Hai, tinh tấn nhất thiết (có hai loại: tại gia và xuất gia. hai loại này, mỗi loại có ba: hoằng thệ, nhiếp thiện, nhiêu ích). Ba, tinh tấn nan hành (có ba loại tinh tấn khó thực hành: tinh tấn Không gián đoạn, tinh tấn không tưởng đến y thực, giường nằm, thân mình, tinh tấn thường tu pháp lành). Bốn, tinh tấn nhất thiết môn (có bốn loại: lìa bỏ pháp nhiễm ô, sinh pháp bạch tịnh, trừ sạch ba nghiệp, tăng ích trí tuệ). Năm, tinh tấn thiện nhơn (có năm loại: không có gì để vất bỏ, không thối giảm, không theo hạ liệt, không điên đảo, siêng năng dõng mãnh gia hành). Sáu, tinh tấn nhất thiết chủng (có hai loại: Lục chủng và thất chủng. Luc chủng: vô gián, ân trọng, đẳng lưu, gia hành, bất động, vô hí túc tinh tấn. Thất chủng: câu hành với dục, bình đẳng tương ưng, thắng tiến, cần cầu, tu học, lợi tha, khéo giữ tinh tấn). Bảy, trừ phiền não tinh tấn. Tám, đời này đời sau vui tinh tấn. Chín, thanh tịnh tinh tấn (có mười loại tinh tấn: Tùy thuận, tu tập, chuyên tinh, thiện nhiếp, tùy thời tu tập tương ưng, thông đạt các tướng tương ưng, không thối lui yếu, không hoại, bình đẳng,hồi hướng đại Bồ-đề).

Tất cả những hành tướng và chủng loại trên của tinh tấn, chúng tôi chỉ nêu ra một số ít trong kinh luận để cho hành giả biết rằng trong tu tập của chúng ta, việc siêng năng tinh tấn là một điều kiện cần thiết và hàng đầu buộc phải có trong việc thực hành; nếu trong tu tập mà chúng ta biếng nhác không chịu khó chịu khổ để thực hành pháp tu thì cho dù pháp tu đó dễ dàng đến đâu hay, phương pháp hay đến đâu đi nữa mà chúng ta không chịu nổ lực tinh tấn để thực hành thì kết qua sẽ không bao giờ đến với chúng ta. Pháp của đức Đạo sư là đến để thực hành chứ không phải đến để biết. Đó là điều kiện tiên quyết cho mọi hành giả muốn đạt được kết quả trong hiện tại hay trong tương lai xa hơn dù là Đại hay Tiểu cũng vậy.



- Về Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), còn gọi là Thiền định ba-la-mật hoặc, Tịnh lự Ba-la-mật, Thiền độ Ba-la-mật. Ở đây có thể dịch là tuyệt đối, hoàn toàn hay sự hoàn thành của Thiền định; chỉ cho tịnh lự tu tập hiện pháp lạc trú, dẫn đến thần thông, nhiêu ích hữu tình, có khả năng điều hòa đối trị loạn ý và khả năng nhiếp giữ chánh ý bên trong, đưa đến bến bờ giải thoát, an vui cuối cùng trong quá trình tu tập thực hiện bồ-tát hạnh của hành giả.

Thiền là từ lược củaThiền-na (dhyāna) còn dịch là tư duy tu, hay tịnh lự. Tư duy tu có nghĩa là tư duy về đối cảnh mà chúng ta đang để tâm vào mà nghiên cứu tu tập và, dùng tâm thể tịch tĩnh tịnh lự để xét về nghĩa tư duy suy nghĩ đó.

Định được dịch nghĩa từ chữ Samādhi Trung Hoa phiên âm là Tam-ma-địa, Tam-mội hay Tam-ma-đề, có nghĩa là chánh thọ, chánh định là định tâm dừng vào một cảnh xa lìa mọi vọng động.

Vậy Thiền có nghĩa là một lòng khảo sát nghiên cứu về một vật nào đó tức là Thiền, còn nhớ nghĩ về một cảnh vắng lặng nào đó gọi là định. Sự khác biệt giữa Thiền và Định chỉ được dùng để nói đến nghĩa rộng chỉ cho Định và, nghĩa hẹp chỉ cho Thiền mà thôi. Bỡi vì sự tư duy xét nghĩ của Thiền-na, tự nó đã có cái nghĩa của đình chỉ tịch tĩnh rồi cho nên cũng gọi nó là Định; nhưng trong Tam-muội (chánh định) lại không có nghĩa xét nghĩ tư duy, nên mới gọi là Thiền. Trong Thiền tối sơ khi Phật còn tại thế thì Thiền không chỉ làm căn bản cho các định mà còn phát ra những sức mạnh chung cho thiên nhãn và thiên nhĩ nữa, tất cả đều nương vào Thiền này. Hơn nữa, trong Thiền có cả những tác dụng của suy xét và quán niệm chân lý, cho nên người học đạo thường lấy Thiền làm khởi đầu tối yếu trong việc thực hành. Tuy nhiên do tính chất trong Thiền đã có định và trong định không có Thiền nên Định được phân ra làm ba loại: Vị Định, Tịnh định, vô lậu định. Vị định (chưa có định) là lúc nó cùng với phiền não tham tương ưng mà khởi, yêu đắm đối với định. Tịnh định là cùng với tâm thiện hữu lậu tương ưng mà khởi. Vô lậu định, là bậc trí nương vào định mà đạt được trí vô lậu.

Theo Luận Đốn ngộ nhập đạo yếu môn quyển thượng: “Hỏi: Sao gọi là Thiền? Sao gọi là Định?” Đáp: “ Vọng niệm không sinh là Thiền, ngồi thấy bản tánh là Định. Bản tính tức là tâm không sinh. Định là đối cảnh không tâm, tám ngọn gió không thể lay động. Tám ngọn gió là: hơn, kém, khen, chê, ca ngợi, trách, khổ, vui, đó gọi là tám ngọn gió. Người nào nếu được định như vậy thì, dù là phàm phu cũng nhập vào địa vị của Phật.” Ngoài ra thường Thiền định được dùng cùng một nghĩa để chỉ cho tâm vật bất động đều gọi là tam-muội cả. Như Trí Độ luận 5 “Khéo trụ tâm vào một chỗ bất động, đó gọi là Tam-muội.” hay cũng trong Trí Độ luận 28 thì: “Tất cả Thiền định đều gọi là Định hay tam-muội. Ngoài tứ Thiền ra, các Định khác cũng gọi là Định, cũng gọi là Tam-muội, mà không gọi là Thiền.”

Về tên gọi thì Định có rất nhiều tên gọi khác nhau tùy thuộc vào người đọc mà có được phiên âm để phù hợp với đối cơ mà gọi tên trong khi phiên âm. Theo luận Câu Xá Quang ký 6 thì có ba tên: Tam-ma-địa (samādhi), Tam-ma Bát-để (samā-patti), Ta-ma-di-đa (samāhita). Theo Duy Thức Liễu nghĩa đăng 7 thì có năm tên gọi: (1). Tam-ma-di-đa (samāhita) là Đẳng dẫn. (2). Tam-ma-địa hay ta-muội (Samādhi) là Đẳng trì. (3). Ta-ma Bát-để (samā-patti) là Đẳng chí. (4). Đà-na-diễn-na, Thiền-na (dhyāna) là Tịnh lự. (5). Chất-đa-hê-ca A-yết-la-ca (cittaikāgratā) là Nhất tâm cảnh tánh. (6). Xà-ma-tha (śamatha) là Chỉ. (7). Hiện pháp lạc trú (dṛiṣṭadharma-sukhavihara). Theo Pháp Giới Thứ Đệ, quyển hạ thì, Thiền có thế gian Thiền và xuất thế gian Thiền. Thiền thế gian là thiền của các hàng phàm phu thực hành, tức căn bản là lấy tứ Thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc Định làm căn bản. Trong khi Thiền xuất thế gian có hai loại: (1). Xuất thế gian Thiền, hay là nhị thừa cộng Thiền, chỉ cho Lục Diệu môn, Thập lục đặc thắng, Thông minh, Cửu tưởng, Thập tưởng, Bát-bối-xả, Bát thắng xứ, Thập nhứt thiết xứ, Luyện thiền, Tứ thập biến hóa, Nguyện trí, Đảnh thiền, Vô tránh tam-muội, Tam tam-muội, Sư tử phấn tấn, Siêu việt tam-muội, Tam minh, Lục thông thiền v.v… (2). Xuất thế gian thượng thượng thiền, hay là bất cộng thiền, như Tự tánh đẳng tứ chủng đại thiền, Thủ lăng nghiêm đẳng bách bát tam-muội, Chư Phật bất động đẳng bách nhị thập tam-muội.

Tuy Thiền Định đều phát xuất từ đức của tâm, song tâm của dục giới không có đức này (chỉ có được khi chúng ta tu tập), mà chúng thuộc về tâm đức của sắc giới và vô sắc giới. Đứng về mặc tương đối của sắc và vô sắc thì Thiền là pháp của sắc giới, Định là pháp của vô sắc giới và, tự chúng có bốn cấp bậc cạn sâu khác nhau, nên chúng ta thường nghe có tứ Thiền, tứ Định. Tứ Thiền, tứ Định này là pháp thế gian chung cho Phật pháp, ngoại đạo, phàm thánh cùng tu tập, ngoài Định thế gian này ra còn có Định xuất thế gian của Phật, Bồ-tát, A-la-hán chứng đắc, đó là các Định vô lậu nhờ tu tập mà có được, cho nên muốn đạt được Thiền thì phải xa lìa phiền não dục giới. Muốn đạt được Định thì phải đoạn trừ phiền não dục giới và, muốn đạt được các Định vô lậu thì phải đoạn tuyệt phiền não vô sắc giới. Vì chúng ta là hành giả của dục giới nên muốn đạt được Thiền định này bắt buộc chúng ta phải nổ lực tu tập mà thôi. Theo tông Câu xá thì định này được chia ra là hai phần: Hữu tâm định và Vô tâm định. Hữu tâm định gồm có bốn Tịnh lự và bốn vô sắc định, Tâm định này có được là nhờ tu tập đoạn trừ dần dần các phiền não hạ địa trong mười địa của các nhà Câu Xá tông, nhờ đó mà sinh ra sắc giới bốn tịnh lự thiên và bốn vô sắc giới thiên định này. Vô tâm định gồm có vô tưởng định và Diệt tận định. Vô tưởng định chỉ cho trạng thái vô tưởng mà các phàm phu cùng ngoại đạo tưởng lầm và cho rằng đây là trạng thái chân Niết-bàn để cho họ tu tập và mong đạt đến. Diệt tân định, chỉ cho cảnh giới tịch tĩnh vô dư Niết-bàn mà các bậc Thánh tu tập đạt được định. Ngoài ra giai đoạn trung gian cận phân định của sơ tịnh lự và nhị tịnh lự được gọi là trung gian định; nếu hành giả nào tu tập định này sẽ được sinh về Đại Phạm thiên. Đây là hai loại định có được nhờ vào sự tu tập của hành giả dành cho cõi dục mà chúng ta đang cư ngụ, chứ không phải sinh ra đã có rồi như là cõi sắc và vô sắc.

Vậy Thiền là tên gọi tắc của Thiền-na được phiên âm từ chữ Phạn dhyāna có nghĩa là tịnh lự cùng với nghĩa “Định” của Tam-ma-địa được phiên âm từ samādhi chữ Phạn họp lại mà gọi là Thiền định. Thông thường tinh thần chúng ta không ổn định hoàn toan, lúc thế này lúc thế khác, luôn thay đổi theo các duyên bên ngoài và bên trong ý nghĩ nên chúng ta không làm chủ được tâm lý ổn định của mình nên mọi rắc rối phức tạp luôn vây khốn chúng ta là cho chúng ta luôn luôn cảm thấy bất ổn trước cuộc sống, nên để kiểm soát cuo654c sống của chúng ta trở nên an ổn và an lạc phát sinh thì hành giả chúng ta, nhất là các hàng Bồ-tát trong lúc thực hành con đường Bồ-tát của mình thì, Thiền định là con đường đi đến tối ưu, dành cho chúng ta trong sự nghiệp tự độ và độ tha, lợi mình lợi người đưa đến an vui giải thoát, mà đức Đạo sư đã từng dạy: “Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện”. (Để tâm vào một chỗ, không việc gì là không làm được). Vậy muốn khống chế tâm cảnh dao động, nhiễu loạn của chúng ta khi tiếp xúc với mọi hoàn cảnh chung quanh, khi chúng ta chưa làm chủ được chính mình thì điều cốt yếu là phải dùng Thiền định làm một phương pháp đối trị lại những nhiễu loạn dao động trước mọi hoàn cảnh bằng cách kéo tâm mình trụ vào một đối tượng duy nhất thì, mọi sự dao động nhiễu loạn bất ổn của ngoại cảnh và tự tâm sẽ tự biến mất và mọi sự an ổn ổn sẽ tự hiện hữu; cho nên gọi “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” là vậy. Khi chúng ta đem tâm mình tập trung vào một đối tượng duy nhất thì, ngay lúc đó tâm chúng ta cắt đứt hết đối các duyên liên hệ khác bên trong hoặc bên ngoài, lúc này tâm chúng ta chỉ có một đối tượng duy nhất, trong thiền học gọi đó là “nhất tâm tánh cảnh” , chính là cảnh giới thiền định được hình thành. Cảnh giới này nếu chúng ta huân tập nhiều chừng nào thì lực của tâm định mạnh chừng đó và, cứ như thế chúng ta tiến lên sẽ đạt được trạng thái “Tâm vật nhất như” là thành tựu được Thiền đinh và, trí tuệ phát sinh cũng là nhờ vào sức mạnh của tâm định này. Ở đây trí tuệ là hậu quả tất yếu có được từ Thiền định, nên người nào có công phu thiền định thì người đó sẽ tập trung bảo trì được lực lượng trí tuệ càng ngày càng sáng hơn và, khi chúng ta gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào đi nữa cũng điều hòa ngay vào cảnh đó một cách tự nhiên, để sau đó đưa đến giải thoát hết mọi hoàn cảnh có thể làm bất ổn cho hành giả. Đây là lúc chúng ta làm chủ được tâm mình, vô công dụng đạo hiện bày, việc độ ta độ người, lợi ta lợi người sẽ được thành tựu viên mãn. Đối với Thiền định nhiều người hiểu lầm rằng ngồi Thiền sẽ đưa đến thân khô, tâm lạnh như gỗ đá bên vực sâu, nhức đầu ù tai, sinh ra điên loạn v.v… Họ không biết rằng việc tu thiền định tiêu cực như vậy của họ là do không đúng phương pháp, không người hướng dẫn nên đi sai đường, hoặc dụng tâm không đúng, điều thân, điều tức không thông, do vậy nên từ đó sinh ra những trở ngại. Đối Thiền định nếu hành giả nào đi đúng đường có người hướng dẫn đúng thì những hiện tượng tiêu cực đó sẽ không bao giời xảy ra và, sẽ thành tựu được mọi kết quả như hành giả mong muốn.

Tóm lại, Thiền-na Ba-la-mật là một trong Lục ba-la-mật nên mục tiêu hướng đến của Thiền định Ba-la-mật là dành cho các hàng Bồ-tát. Ở đây tuy cũng là Thiền định hết nhưng Thiền định của các nhà Tiểu thừa được giới hạn trong ba học, cũng chỉ có giá trị thực tiễn trong tự lợi mà thôi, còn đối với các hàng Bồ-tát không những có giá trị trong tự lợi mà còn mang đến lợi tha cho người nữa. Đó chính là sự khác biệt giữa Bồ-tát và Thinh văn là như vậy, nên trong cùng Thiền định, nhưng chúng cũng tùy thuộc vào thuộc tính của người hành trì, nên vấn đề sai biệt đó phải có, để phù hợp với căn cơ.



- Về Bát Nhã Ba-la-mật (prajñā-pāramitā), người Trung quốc dịch nghĩa, phiên âm trí tuệ Ba-la-mật, hay Minh độ vô cực. Cũng có thể dịch là tuyệt đối, trí tuệ hoàn toàn, hoàn thành trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng nghĩa, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si, biết rõ thật tướng các pháp hiện hữu và biến dịch, hoặc gọi là tuệ Ba-la-mật, thắng nghĩa Ba-la-mật; là một trong lục Ba-la-mật, một trong thập Ba-la-mật dùng để quán chiếu rõ thật tướng các pháp, là cùng cực tuệ lớn của Bồ-tát. Như Kinh Đại phẩm Bát-nhã 14, Phẩm Phật mẫu (Đ.8, tr. 323b) đức Đạo sư dạy: “Trí tuệ sâu xa qua bờ bên kia này, hay sinh ra chư Phật, hay cùng nhất thiết trí chư Phật có khả năng thị hiện tướng thế gian, vì vậy nên chư Phật thường dùng Phật nhãn quán xét trí tuệ sâu xa qua bờ bên kia này và, dùng trí tuệ qua bờ bên kia này thường sinh ra Thiền-na Ba-la-mật cho đến Đàn-na Ba-la-mật, sinh ra nội không, cho đến không của vô pháp cùng hữu pháp, sinh ra Tứ niệm xứ, cho đến tám phần Thánh đạo, sinh ra thập lực Phật, cho đến nhất thiết chủng trí. Cũng vậy, Bát-nhã Ba-la-mật thường sinh ra Tu-đà-hòan, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích Chi Phật. Tu-bồ-đề! Những gì chư Phật đã sở hữu về A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, nay được, sẽ được đều nhờ vào nhân duyên Bát-nhã Ba-la-mật nên có được.” Và chỗ khác đức Đạo sư dạy: “Bát-nhã tức chỉ cho trí tuệ, Thinh Văn Duyên Giác cũng đạt được trí tuệ, song Thinh Văn Duyên Giác chỉ cầu đều mau tiến đến Niết-bàn, chứ không cầu trí tuệ rốt ráo, cho nên chưa có thể được Ba-la-mật. Chỉ có Bổ-tát mới cầu nhất thiết trí đến bờ bên kia, cho nên gọi là Bát-nhã Ba-la-mật đầy đủ.” Qua Những lời dạy của đức Đạo sư cho chúng ta biết rằng Trí tuệ thì ai cũng có thể đạt được hết, đây chính là trí tuệ của hậu đắc trí có được từ sự phát sinh của tu tập. Tuệ này nếu chúng ta không thực hành qua tu tập thì sẽ khơng bao giờ có được; nhưng đối với căn bản trí là trí tuệ bản giác chân thật từ xưa đến nay ai cũng có, chúng thuộc loại trí bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm. Theo nghĩa tuyệt đối thì chính chúng hay sinh ra Thiền-na Ba-la-mật cho đến Đàn-na Ba-la-mật, sinh ra nội không, cho đến không của vô pháp cùng hữu pháp, sinh ra Tứ niệm xứ, cho đến tám phần Thánh đạo, sinh ra thập lực Phật, cho đến nhất thiết chủng trí. Cũng vậy, Bát-nhã Ba-la-mật thường sinh ra Tu-đà-hòan, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích Chi Phật. Tu-bồ-đề! Những gì chư Phật đã sở hữu về A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, nay được, sẽ được đều nhờ vào nhân duyên Bát-nhã Ba-la-mật nên có được này. Vì mỗi hữu tình chúng sinh được sinh ra vốn đã mang trong người một nghiệp thức di truyền từ vô lượng kiếp, cộng vào hiện thức đang huân tập từ trong cuộc sống hiện tại qua tác nhân của thân miệng và í trong hiện tại huân tập tạo ra cho chúng ta một tập khí làm nhân nghiệp mới, cả hai hiện tại cho chúng ta một loại nhận thức hữu lậu thế gian chúng câu hữu với vô minh nên chưa được gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Như Luận Đại Trí Độ 43 (Đ. 25, tr. 371a) dạy thì, :”Người phàm phu tuy lại ly dục, mà có tâm ta, người đắm vào pháp ly dục, nên không thích Bát-nhã Ba-la-mật. Thinh Văn, Bích Chi Phật dù có thích muốn Bát-nhã Ba-la-mật, nhưng vì từ bi không thâm sâu, nên rất chán thế gian, một lòng hướng tới Niết-bàn, cho nên Bát-nhả Ba-la-mật không thể đầy đủ được. Bát-nhã Ba-la-mật này lúc Bồ-tát thành Phật thì chuyển thành Nhất thiết chủng trí, vì vậy cho nên Bát-nhã Ba-la-mật cũng không thuộc của Phật, cũng không thuộc của Thinh Văn, Bích Chi Phật, không thuộc phàm phu, chỉ có dành cho Bồ-tát mà thôi.” Những gì đức Đạo sư dạy trong luận Đại Trí Độ cho chúng ta biết rằng Bát-nhã thì ai cũng có, ai cũng muốn thực hành nhưng độ thâm tín của nó còn tùy thuộc vào sự sâu dày của nó và luôn tùy thuộc vào thuộc tính căn cơ, do đó ở đây chúng chỉ dành riêng cho các hàng Bồ-tát trong chức năng thực thỉ Bồ-tát hạnh mà thôi. Cũng như Kinh Ưu-bà-tắc giới 7, phẩm Bát-nhã Ba-la-mật dạy: “Trí tuệ phi Ba-la-mật, là chỉ cho tất cả những trí tuệ thế gian, những sở hành trí tuệ của Thinh Văn, Duyên Giác. Ba-la-mật phi trí tuệ, ở đây không có nghĩa này. Trí tuệ là Ba-la-mật, là chỉ cho tất cả lục Ba-la-mật. Phi trí tuệ phi Ba-la-mật, là chỉ cho tất cả Bố thí, Trì giới, Tinh tấn.” Và để làm sáng tỏ và rõ ràng hơn về Bát-nhã Ba-la-mật cũng theo luận Đại Trí Độ 18 (Đ. 25, tr. 190a) thì, :”Chư Bồ-tát từ lúc bắt đầu phát tâm cầu Nhất thiết chủng trí thì trong thời gian này biết hết thật tướng của các pháp, Tuệ là Bát-nhã Ba-la-mật. Hỏi: ‘Nếu như vậy thì không nên gọi là Ba-la-mật. Vì sao? Vì chưa đạt đến trí tuệ rốt ráo!’ Đáp: ‘Chỗ đạt được trí tuệ của Phật là thật Ba-la-mật, và nhân Ba-la-mật này nên sở hành của Bồ-tát cũng gọi là Ba-la-mật, trong nhân nói quả. Bát-nhã Ba-la-mật ở trong tâm Phật đã biến thành Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát hành trí tuệ là cầu qua bờ kia cho nên gọi là Ba-la-mật. Phật đã qua bờ kia rồi, nên gọi là Nhất thiết chủng trí’.” Ở đây vì nhận thức theo thuộc tính của pháp hành trì tương đối nên chúng tùy thuộc đối tượng hành trì đã đạt được hay chưa đạt được qua bờ bên kia. Nếu đạt được qua bờ bên kia rồi thì, lúc này không còn là Bát-nhã Ba-la-mật nữa mà là Nhất thiết chủng trí và, chỉ khi nào chưa đạt được đến bờ bên kia, có nghĩa là còn trong thời gian thực hành, chúng tùy thuộc vào thời gian thì chính nó là Trí tuệ qua bờ kia (Bát-nhã Ba-la-mật). Nhưng dù là tương đối hay tuyệt đối mà nhận thức về trí tuệ thì nhân và quả chúng cũng phải tùy thuộc vào nhau mà hiện hữu: “Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không; cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt …” Theo luật tắc nhân quả Duyên khởi thì Nhất thiết chủng trí cũng chính là Bát-nhã Ba-la-mật và, Bát-nhã Ba-la-mật cũng chính là Nhất thiết chủng trí. Vì ở đây chúng lệ thuộc vào thời gian để qua bờ kia, do đó chúng cũng lệ thuộc vào pháp tu tương đối, nên giữa trí tuệ thế gian hữu lậu với trí tuệ xuất thế gian vô lậu chúng trở nên sai biệt đa thù tùy thuộc vào căn cơ nhận thức của các loài hữu tình chúng sanh mà mà theo đó có những ‎nghĩa và tên gọi khác nhau.

Nếu chúng ta đứng về mặt tương đối mà nhận thức thì giữa trí tuệ thế gian và xuất thế gian trên tên gọi và nhận thức về sự thật chân lí thì không khác chúng cùng một dạng, dù rằng trí tuệ trong Phật pháp vượt thóat và cao sâu hơn. ‎Những gì đức Phật đã dạy về trí tuệ là cho chúng ta nhận thức về chân lí, quán thông muôn pháp, cách thức hành sử ứng dụng trên muôn pháp không có bất cứ một mảy may sai lầm nào, đó chính là nhờ trí tuệ. Dù chúng ta là những chúng sinh hữu tình được sinh ra từ nghiệp lực, dù trí tuệ có bị nghiệp lực làm mê mờ đi chăng nữa, nhưng trên căn bản chúng ta vẫn có Căn bản trí là một thứ trí tuệ chân thật không sinh không diệt, không tăng không giảm về mặt bản thể mà luận, nhưng về mặt nghiệp tướng thì trí tuệ luôn tùy thuộc vào hiện tướng của nghiệp duyên mà chúng thể hiện, do đó trí tuệ trở thành đa dạng sai biệt theo nghiệp lực của hữu tình thế gian mà có được, nên trí tuệ ác hữu lậu nặng hơn là trí tuệ thiện che khuất mất đi tánh thanh tịnh trong sáng xưa kia, đành phải trầm luân trong sinh tử luân hồi. Vậy muốn trở lại Căn bản trí thì theo đức Đạo sư chúng ta phải hành trì tu tập có phương pháp mới mong trở lại trí tuệ bản nhiên được: Đó là ba phương pháp Văn, Tư và, Tu. Trước hết chúng ta cần phải phát tâm tìm cầu nghe pháp (là những lời dạy của đức Phật, chúng câu hữu với giải thoát) để biết đâu là chánh đâu là tà gọi là Văn tuệ; sau khi chúng ta nghe pháp rồi những sự hiểu biết rõ ràng sáng tỏ sẽ phát sinh nhờ vào tư duy pháp gọi là Tư tuệ; sau khi chúng ta tư duy sáng tỏ rõ ràng rồi bắt đầu chúng ta hành trì tu tập gọi là Tu tuệ. Nhưng trong ba tuệ này thì Tư tuệ chính là công phu có được từ Thiền-na như phần trên chúng tôi đã nói là đem tư duy làm sao cho khế hợp với cảnh giới của chân lí và, từ đó dần dần phát sinh trí tuệ nhiều hay ít tùy thuộc vào sự thực hành của hành giả cho đến khi hành giả đạt được trí tuệ rốt ráo qua bờ bên kia, kết quả của trí tuệ rốt ráo có được này gọi là Hậu đắc trí.

Các hàng Bồ-tát khi hành lục độ, ban đầu nổ lực mong cầu thực hành hợp lí đạo, sau đó thì dần dần đạt đến chỗ vô hành không ưa thích cảnh chân lí mà ưa hành chân lí, đó chính là hành trí tuệ. Cho nên trọng tâm của lục độ là ở nơi trí tuệ, đạo trí tuệ tức là đạo Bồ-đề. Mục đích của lục độ là đưa hành giả phàm phu vượt qua phiền não sinh tử đến bờ an vui giải thoát bên kia của các bậc Thánh. Các hàng Bồ-tát ngoại trừ giới căn bản ra, còn cần tu tập lục độ để đạt đến cứu cánh rốt ráo của trí tuệ nữa. Do đó trí tuệ qua bờ kia (Bát-nhã Ba-la-mật) rất quan trọng đối với các hàng Bồ-tát, khi thực hành Bồ-tát hạnh của mình. Vì bản thân của trí tuệ chính là mẹ đẻ của các pháp nên trong lục Ba-la-mật đều có sự hiện diện của của trí tuệ cả, cho dù tác động của nó là tiêu cực khiến hành giả không nhận ra được sự hiện hữa của nó như Bát-nhã Ba-la-mật.

Tóm lại, qua những trình bày về ý nghĩa công dụng của Lục Ba-la-mật, cho hành giả chúng ta có một nhận thức cơ bản về cả hai mặt tự lợi và lợi tha cho cả hai Thừa của Phật giáo, tuy trên mặt căn cơ có sự sai biệt, nhưng về mặt tác dụng chúng vẫn có những giá trị nhân quả ngang nhau dù là đại hay tiểu, dù là tiêu cực hay tích cực, chúng vẫn mang lại cho hành giả những kết quả theo từng thuộc tính của chúng về: Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā), là bố thí hoàn toàn tuyệt đối, trong đó có cả ba loại Tài thí, Pháp thí và, Vô úy thí, ở đây phải được thể hiện là ba luân không tịch thì mới lột hết cái nghĩa Ba-la-mật được. Thi-la Ba-la-mật (Śīla-pāramitā), là chỉ cho việc trì giữ luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới, chúng có khả năng đối trị nghiệp ác khiến cho ba nghiệp thân và tâm trở thành thanh tịnh, thì việc qua bờ kia đã hòan thành. Sàn-đề Ba-la-mật (ksānti-pāramitā), là chỉ cho việc tu tập nhẫn nại oán hại, An nhẫn chịu khổ, xét kỹ pháp nhẫn có khả năng đối trị sân nhuế, khiến tâm trụ vào an ổn, vượt qua ba độc hòan thành giải thoát khổ đau. Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā), là hoàn thành tinh tấn, trong đó có cả hai tinh tấn thân và tâm. Tinh tấn siệng năng tu tập các thiện pháp, tức là chỉ cho thân siêng năng tinh cần tu tập bố thí, trì giới thiện pháp, tâm tâm liên tục miên mật siêng năng tu tập nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Cho nên tinh tấn có khả năng về hai mặt thân và tâm để đối trị với căn bệnh lười biếng của ác pháp sinh trưởng các pháp lành và hòan thành mọi nổ lực trong tu tập các pháp vưỡt thoát. Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā), là chỉ cho sự tu tập tịnh lự hiện pháp lạc trú, tịnh lự đưa đến thần thông, tịnh lự lợi lạc hữu tình, chúng có khả năng đối trị loạn ý, nhiếp giữ ý niệm đối tượng bên trong không cho chạy theo các duyên bên ngoài, để từ đó làm chủ được thân và tâm mình lúc nào cũng ở trong đại định, hòan thành vô công dụng đạo qua bờ bên kia. Bát Nhã Ba-la-mật (prajñā-pāramitā), là hoàn thành trí tuệ, có nghĩa được tuệ thế tục, tuệ duyên thắng nghĩa, tuệ duyên hữu tình, có khả năng chấm dứt ngu si, biết rõ thật tướng các pháp hiện hữu và biến dịch.

Ý nghĩa và giá trị của Lục Ba-la-mật như trên, tuy chúng tùy thuộc vào từng phương pháp một về mặt nhân quả tương đối nói lên giá trị tích cực của chính chúng; nhưng về Duyên khởi thì chúng ở trong nhau, một pháp hòan thành thì hòan thành tất cả sáu pháp.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2010
0 nhận xét
categories: | | edit post


Nhất tâm đảnh lễ Lumbini Vô-ưu thọ hạ thị hiện Đản Sanh
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

“Phật tại thế thời ,
Ngã đẳng trầm luân .
Kim đắc nhơn thân ,
Phật dĩ diệt hậu.”


Vì nguyện lực Người chôn vùi cát bụi
A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh
Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
Ứng mộng vàng thác chất một lần sanh.

Vào một sớm Người về bên núi tuyết
Đem nguyện lành trải dấu bước nhân gian
Nâng tay nhẹ Lâm-tỳ-ni hoa nở
Từng bước chân lay động cõi ba ngàn.

Chim vui hót nhạc trời vang trổi khúc
Khắp Nhơn Thiên mở hội đón tin mừng
Ca-tỳ-la trở mình trong hoan lạc
Đón Người về trong niệm khúc ca vang.

Và từ đó Người hoàn thành nguyện lực
Gieo mầm xanh tuệ giác khắp mọi nhà
Nhổ khổ đau ban cho đời an lạc
Để bây giờ còn lại vết, đi xa.

Trăng vẫn hiện bên hồ xưa in dấu
Ghi lại lần tắm gội bến thiên thu
Cảnh còn đấy bên thời gian hoang vắng
Người ra đi vĩnh viễn khói sương mù.

Con lạc bước trầm luân trong đáy mắt
Về nơi đây qua ký ức nhạt nhòa
Con cúi lạy thay vô minh vạn kiếp
Theo vết chân Người để lại luân hồi.

Đếm từng bước nắng nhòa qua mái tóc
Trắng từng giây trong một niệm thiên thu
Trời đất cũ xin về đây chứng giám
Con lòng thành xin gởi lại nghìn sau.


Phổ Đồng
Chiêm bái Lumbini (Nepal 07/03/2008)

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2010
0 nhận xét
categories: | | edit post

Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, khác nhau tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập, đó là Tu-đà-hoàn (srota-āpanna) còn gọi là nghịch lưu quả, Tư-đà-hàm (sakradāgamin) còn gọi là Nhất lai quả, A-na-hàm (anāgāmin) còn gọi là Bất hoàn quà và, A-la-hán (arhat) tức là A-la-hán quả. Tu-đà-hoàn là quả vị của những chúng sanh phàm phu bắt đầu nhập vào hay dự vào dòng Thánh đạo nên bắt buộc hành giả phải đi ngược dòng sanh tử, do đó đức Đạo sư gọi bước đi của họ là nghịch lưu, có nghĩa là đi ngược dòng sinh tử để đi đến Thánh đạo, tức là hành giả muốn đạt được quả vị này phải đoạn trừ sạch Kiến hoặc ba cõi (một trong ba hoặc của vô minh là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc). Tư-đà-hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi trời Dục lục đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của dục giới và, chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian nữa, cho nên cũng gọi là Nhất lai. Quả vị này vẫn còn trong dự lưu quả. A-na-hàm là quả vị của những hành giả đã đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giời và sẽ không còn sanh trở lại dục giới nữa, mà sẽ sinh về sắc giới hay vô sắc giới tùy thuộc vào kết quả sâu cạn của nó mà thôi. A-la-hán là quả vị cuối cùng của bốn quả, hành giả đã đoạn trừ hết kiến và tư hai hoặc không còṇ, là cực quả của hàng Thinh Văn thừa, vĩnh viễn đi vào Niết-bàn không còn tái sinh vào ba cõi nữa, cho nên gọi là bất sinh. Đây là Bốn quả sa-môn của Thinh Văn thừa, có nơi còn gọi là bốn quả Sa-môn chúng tôi trình bày sơ qua ý nghĩa của chúng mà thôi, dưới đây chúng tôi sẽ trình bày một cách chi tiết và những liên hệ duyên khởi với bốn hướng lệ thuộc trong nội hàm cần phải có trước khi hành giả đi đến những quả vị này.

1 . Tu-đà-hoàn (srota-āpanna) còn phiên là Tu-lũ-đa A-bán-na,, là quả Thánh tối sơ trong bốn quả Thinh Văn thừa, là sơ quả, quả vị đạt được của Thánh giả khi hành giả đã đoạn trừ sạch mọi kiến hoặc, nhờ hành giả thấy được lý của Tứ đế, đạt được mắt trí tuệ vô lậu thanh tịnh. Nhờ vào đây mà hành giả có thể đến thẳng quả Dự lưu, không đọa vào ba đường ác nữa, nên gọi là pháp vô thối đọa; nhưng vì hành giả của quả vị này còn chưa chứng nhập vào quả vị nên chưa gọi là quả mà gọi là hướng, có nghĩ là hành giả cò một tâm vị cuối cùng trong mười sáu tâm vị để chứng hập vào quả vị Tu-đà-hoàn, nên hành giả cần phải hoàn thành nốt tâm vị mười sáu mới hoàn thành được quả, là phải đoạn trừ hết kiến hoặc của ba cõi, dùng tất cả mười sáu tâm vị mà nhập vào địa vị vô lậu Thánh đạo. Thánh giả trong mưới sáu vị kiến đạo vì căn cơ có chậm có nhanh nên phân ra làm hai: (1) Tùy tín hành, là chỉ cho những vị căn độn, chậm chạp, tự mình không thể lịch duyệt văn bản giáo pháp, chỉ tin vào những lời dạy của người khác mà được ngộ đạo. (2) Tùy pháp hành, chỉ cho những vị có lợi căn bén nhạy, tự mình có thể lịch duyệt văn bản giáo pháp của Phật theo pháp mà thực hành. Vì ở đây hành giả tùy theo căn cơ mà theo pháp hành, đoạn được kiến hoặc của ba cõi, có nghĩa là người đang đi nghịch lại dòng sinh tữ luân hồi, nên dự vào dòng Thánh và chứng nhập vào sơ quả của bậc Thánh, cho nên gọi là Dự lưu. Tu-đà-hoàn phân ra làm hai vị nhân quả, đó là tự nhập vào từ “Kiến đạo” sơ tâm cho đến thập ngũ tâm, đó là giai đoạn tác nhân hướng đến quả Tu-đà hoàn thì, giai đoạn này gọi là Tu-đà-hoàn hướng. Sau khi hành giả đạt được Tu-đà-hoàn hướng rồi thì tiếp theo là phải hoàn thành vị cuối cùng của “Kiến đạo” là thập lục tâm vị (Khi hành giả tiến vào kiến đạo thì phải dùng trí vô lậu mà hiện quán về Tứ đế thì sẽ được mười sáu loại trí tuệ gọi là thập lục tâm, tức là đối với Tư đế, mỗi đế tự sanh ra bốn cách lý giải cộng lại thành mười sáu), nếu vị này hoàn thành được thì đạt được quả vị Tu-đà-hoàn rốt ráo, đó chính là cái quả của Tu-đà-hoàn, là cái sơ quả chính trong bốn Thánh vi của Thinh Văn thừa. Theo Thông Lộ Ký của Ngũ Giáo Chương 50 thì, hành giả của quả dự lưu được phân ra làm ba loại: (1) Hiện ban Dự lưu, là khi “Tư hoặc” ba cõi của hành giả đều đoạn tận thì sẽ đạt được quả vô học mà chứng nhập vào Bát Niết-bàn, dành cho các hành giả thuộc vào hàng có lợi căn. (2) Hiện tiến Dự lưu, nhờ có tiến tu mà hành giả đoạn trừ được sáu phẩm trước cho đến chín phẩm “Tư hoặc” của dục giới, mà chứng nhập vào “quả nhất lai” cùng chứng nhập vào “quả Bất hoàn” dành cho hành giả thuộc vào hàng có căn cơ hạng trung. (3) Thọ sanh Dự lưu, chỉ cho những hành giả sinh qua lại trong cõi trời hay cõi người hoặc một, hai lần cho đến bảy lần thuộc vào hàng có căn độn chậm lụt. Đó chính là hai thuộc tính của nhân quả Tu-đà-hoàn.

2 . Tư-đả-hàm (sakadāgamin), còn phiên là Sa-yết Đà-già-di, là quả Thánh thứ hai trong bốn quả Sa-môn Thinh Văn thừa, có nghĩa là Thánh giả khi tu tập đạt đến quả vị này thì chỉ còn có một lần sanh lại cho nên gọi là Nhất lai. Hơn nữa trước khi Thánh giả muốn đạt được Tư-đà-hàm quả này thì Thánh giả phải hoàn thiện Tư-đà-hàm hướng sau đó mới mong đạt được quả vị này, tức là thánh giả của Dự lưu quả (Sơ quả) ngoài việc hoàn thành việc đoạn trừ tư hoặc dục giới từ nhất phẩm cho đến ngũ phẩm của Tư-đà-hàm hướng, có nghĩa là lúc này hành giả mới chỉ đạt được Tư-đà-hàm hướng hay còn gọi là Nhất lai hướng ma thôi; chỉ khi nào Thánh giả hòan thành việc đoạn trừ Tư hoặc dục giới phẩm thứ sáu thì mới gọi là Tư-đà-hàm quả và, lúc này Thánh giả chỉ còn một lần sinh từ trên trời đến nhơn gian hay ngược lại từ nhân gian lên đến trời mới vào Niết-bàn. Từ đây trở lui về sau thánh giả không còn tái sinh nữa, lúc này mới gọi là Tư-đà-hàm quả hay là Nhất lai quả. Qua đây, cho hành giả chúng ta thấy rằng trong chín phẩm Tư hoặc dục giới mà nếu Thánh giả đoạn trừ được sáu phẩm trước thì tùy theo thuộc tính của kết quả đó mà Thánh giả nhận được theo tên gọi của nó, còn ba phẩm cuối chưa trừ được Tư hoặc, nên còn phải qua một lần tái sinh từ cõi trời vào nhơn gian mà vào Bát Niết-bàn, vì vậy cho nên gọi là Nhất lai. Theo Tăng Nhất A-hàm 20 (Đ.2, tr. 653c) đức Đạo sư dạy: “Sao gọi là hoa Bân-đà-lợi Sa-môn? Hoặc có người, hết ba kết sử, nhẹ dâm nộ si, thành tựu quả Tư-đà-hàm, lại đến thế gian này, tận cùng hết khổ; hoặc người nhanh nhẹn đến thế gian này, tận cùng hết khổ; hoặc người dõng mãnh, đối thế gian này tận cùng hết khổ, giống như hoa Bân-đà-lợi sớm nở tối tàn, đó gọi là hoa Bân-đà-lợi Sa-môn.” Y cứ vào đây, chúng ta có thể biết rằng cùng là Thánh giả của Nhất lai quả cũng có thể tế nhị phân ra làm hai: (1) Công dõng mãnh nhanh chóng tu hành của họ gọi là hoa Bân-đà-lợi Sa-môn. (2) Công chậm chạp lề mề tu hành của họ gọi là Nhất lai. Ở đây chúng tùy thuộc vào sự nổ lực tinh tấn của Thánh giả nhanh hay chậm và, cũng tùy thuộc vào đó mà có thời gian hòan thành nhanh hay chậm mà thôi.

3 . A-na-hàm (anāgāmin), còn phiên là A-na-già-di gọi tắt là Na-hàm, là quả thứ ba của Thánh giả trong Bốn quả Sa-môn Thinh Văn thừa, có nghĩa là ở đây, hành giả nào đọan trừ hòan tòan rốt ráo được ba phẩm còn lại cuối cùng trong chín phẩm thời gọi là A-na-hàm quả có nghĩa là Bất hòan quả (anāgāmi-phala); nếu trong ba phẩm còn lại mà hành giả chỉ đọan trừ được một hoặc hai phẩm mà còn lại hai hoặc một phẩm chưa đoạn trừ thì chưa gọi là A-na-hàm quả được mà chỉ gọi là A-na-hàm hướng có nghĩa là Bất hòan hướng (anāgāmi-pratipannaka). Như vậy, Quả thứ ba của Thinh Văn thừa là A-na-hàm quả này cũng chia ra làm hai như hai quả trên là A-na-hàm hướng và A-na-hàm quả. Nếu Thánh giả chỉ mới hòan thành được một hoặc hai trong ba phẩm còn lại thì gọi là hướng, còn nếu hành giả nào hòan thành cả ba phẩm còn lại thì gọi là A-na-hàm quả. Trong giai đọan hành giả hòan thành A-na-hàm hướng, tức là chỉ đọan trừ được một tư hoặc, thứ bảy, hay hai tư hoặc, thứ bảy và tám, tức là còn lại một hay hai phẩm thì hành giả đang ở trong giai vị, buộc phải thọ sanh một lần trong cõi trời thuộc dục giới (trời lục dục) gọi là Nhất gian (ekavīcika); cũng gọi là Nhất sanh, Nhất phẩm hoặc, cũng gọi là Nhất chủng tử. Trong giai đọan hành giả đã đọan trừ hòan tòan ba phẩm tư hoặc cuối cùng của cửu phầm tư hoặc thì, đó chính là lúc Thánh giả không còn tái sinh trở lại cõi dục nữa. Vì hành giả không còn tái sinh vào cõi dục nữa cho nên gọi là Bất hòan. Trong quả Bất hòan có thể phân ra làm năm loại, gọi là ngũ chủng bất hòan, có nơi còn gọi là ngũ chủng A-na-hàm, ngũ bất hòan quả, hay ngũ chủng ban đó là: (1) Trung ban, chỉ cho Thánh giả bất hòan quả khi chết ở cõi dục được sinh về cõi sắc, ở vị “trung hữu” của sắc giới mà nhập vào Bát Niết-bàn. (2) Sanh ban, Thánh giả đã sinh về sắc giới không lâu có khả năng phát khởi Thánh đạo, đọan trừ được hoặc nghiệp của vô sắc giới mà Bát Niết-bàn. (3) Hữu hành ban, Thánh giả sanh vào cõi sắc, tinh tấn thực hành thêm, qua thời gian lâu dài hơn nữa mà vào Bát Niết-bàn. (4) Vô hành ban, hành giả sanh về cõi sắc, nhưng chưa tinh tấn thực hành thêm, phải trải qua lâu ngày chầy tháng mới đoạn trừ được hoặc nghiệp của cõi vô sắc mà vào Bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu ban, trước hành giả sinh về sơ thiền cõi sắc, dần dần sanh lên trong các trời khác ở cõi sắc, cuối cùng đến trời sắc cứu cánh hoặc trời Hữu đảnh mà nhập Bát Niết-bàn. Lại nữa, Thánh giả nào nhập vào Diệt tận định, chứng đắc giống như cái vui Niết-bàn tịch tịnh của Bất hòan quả, còn gọi là thân chứng hoặc gọi thân chứng bất hòan mà đọan trừ chín phẩm tư hoặc cõi dục, nhưng Thánh giả nào đạt được Bất hòan quả ở đây, thì sẽ lại sinh khởi phiền não dục giới trở lại mà tự thối đọa Bất hòan quả, vì vậy cho nên gọi là Ly dục thối (thối ly dục). Đó là những gì sai biệt có được từ A-na-hàm quả và Diệt tân định, tuy cái vui giống nhau nhưng một bên là Bất hòan quả còn một bên trở thành ly dục thối hay Bất hòan quả thối đọa.

4 . A-la-hán (arhat), còn phiên là A-lô-hán, A-la-a, A-lợi-a, hoặc A-lê-a, hay Át-la-hà-đế là quả thứ tư của bốn quả Sa-môn Thinh văn thửa, là một trong mười danh hiệu của đức Như lai, chỉ cho những vị Thánh đã đoạn tận tất cả những phiền não mà được Tân trí, đáng được người đời cúng dường; nhưng sau này nghĩa thứ nhất được dùng nhiều để chỉ cho những vị Thinh văn đệ tử của Như lai đã chứng được bốn quả vị mà nói hơn là nghĩa thứ hai. A-la-hán có ba nghĩa: Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh. Ở đây tùy theo thuộc tính của từng chức năng mà chúng thể hiện những công năng và những dụng quả của chúng mà chúng có những nghĩa được mang tên gọi. Trước hết quả vị này các hành giả Thinh văn thừa muốn đạt được cực quả này thì cần phải đoạn trừ sạch hết tất cả hai thứ vô minh tư hoặc và kiến hoặc lúc đó mới được gọi là sát tặc; từ kết quả này mà hành giả mới được nhận sự cúng dường của Trời - Người nên gọi là Ứng cúng và, cũng từ đây quả báo hết một đời cũng chấm dứt luôn, vĩnh viễn vào Niết-bàn không bao giờ tái sinh trở lại ba cõi nữa nên gọi là Bất sinh. Theo Câu Xá luận 24 thì, từ quả bất hoàn tiến tu để đoạn trừ hẳn các hoặc nghiệp. Bắt đầu từ sơ định phẩm một cho đến đoạn trừ hữu đảnh phẩm tám sau cùng thì lúc này được gọi là A-la-hán hướng. Ở đây nói về chức năng đoạn trừ hoặc của hữu đảnh trong A-la-hán hướng, còn đệ cửu vô gián đạo được gọi là kim cương định, tất cả mọi tùy miên điều bị phá trừ; trong vô gián đạo những khả năng đoạn hoặc thì định này tương ưng tối thắng … và trong đoạn hoặc định này cũng là đạo vô gián sau cùng và cũng là nơi sinh ra tận trí đạo giải thoát tối hậu. Do vì định này vừa đoạn trừ lậu tận vừa sinh ra đạo giải thoát tối hậu nên được gọi là Tận trí. Khi Tân trí được sinh ra thì cũng là lúc quả vô học A-la-hán thành tựu. Ở đây hành giả nhờ vô học mà thành quả nên biệt quả này không từ sự học của hành giả hữu học mà có nên được gọi là Vô học. Đây là quả vị cuối cùng của bốn quả Sa-môn theo quan điểm của các nhà Thinh văn thửa; tuy nhiên theo các nhà Đại thừa thì quả vị A-la-hán không những chỉ dành riêng cho các hàng Thinh văn không thôi mà dùng chung cho cả ba thừa như Thành Duy thức luận 3 (Đ. 31, tr. 13a đã dạy: “A-la-hán, chỉ chung cho quả vị Vô học của ba thừa.”

Về ý nghĩa của A-la-hán như trên chúng tôi đã đề cập sơ qua, ở đây theo luận Đại Tỳ-bà-sa 94 (Đ. 27, tr. 487b) thì, “ Nhằm đáp ứng sự thọ nhận cúng dường tối thắng của thế gian, cho nên gọi là A-la-hán, vì ở thế gian không có những mạng duyên thanh tịnh nào, ngoài các vị A-la-hán nơi đáng được sự nhận lãnh. Hơn nữa, A-la là chỉ cho tất cả phiền não, Hán là có khả năng làm tổn hại, dùng đao bén trí tuệ sát hại giặc phiền não khiến chúng không còn nữa, cho nên gọi là A-la-hán. Và A-la-hán còn có nghĩa là: A là không, La-hán là sanh, vì không sanh cho nên gọi là A-la-hán; nghĩa là là các vị A-la-hán không còng sinh trở lại trong sinh tử luân hồi ba cõi sáu đường nên gọi là bất phục sinh. Lại nữa, A-la còn có nghĩa là xa lìa, Hán có nghĩa là pháp ác bất thiện, vì hành giả xa lìa các pháp ác bất thiện nên gọi là A-la-hán.” và theo Đại Trí Độ luận 2 thì, A-la-hán có ba nghĩa: Sát tặc, Bất sanh và, Ứng thọ cúng dường. Nếu y cứ vào ngữ căn √arh của từ arhan (= arhat) có nghĩa là ‘đáng nhận’ (kham thọ) hay ‘được làm mọi việc’ (đắc tác mỗ sự) theo nghĩa này thì arhat chủ cách có nghĩa là tác Ứng cúng. Nhưng theo Câu Xá luận 24 thì chỉ nên làm việc người (Ứng tác tha sự), tức là nơi ứng cúng cho mọi người nên gọi là A-la-hán. Và theo Đại Thừa Nghĩa Chương 20 thì, A-la-hán có bốn nghĩa: (1) Phật Ứng đoạn tấc cả các pháp ác nên gọi là Ứng. (2) Như Lai Ứng chứng Niết-bàn tịch diệt nên gọi là Ứng. (3) Như lai Ứng hóa tất cả chúng sanh nên gọi là Ứng. (4) Như lai đoạn tận lậu hoặc đạt phước điền thanh tịnh, Ứng thọ vật cúng dường nên gọi là Ứng cúng. Theo Thành Duy Thức luận thuật ký 3 thì cũng định nghĩa A-la-hán như sau: “A-la-hán nghĩa chính là Ứng. Ứng có nghĩa là khế hợp thừa đương. thích ứng đoạn phiền não, thích ứng nhận cúng dường, ứng hợp với việc không tái sinh trở lại đời sau. Chỉ nói một nghĩa thì thông ba nghĩa, nên nói Như lai ứng, không nói ứng cúng (một nghĩa) nếu thêm chữ cúng vào thì chỉ có một nghĩa, liền mất hai nghĩa kia.” Qua những định nghĩa về A-la-hán như trên, tuy cũng có một vài điểm không đồng nhất, nhưng trên ý nghĩa đưa đến rốt ráo thì kinh luận nào cũng nói đến việc đoạn trừ xa lìa ác pháp bất thiện để đưa đến Niết-bàn thì cùng chung một quan điểm. Có thể đây là những sai biệt về cách thức định nghĩa hay giải thích theo từng thuộc tính của các bộ phái nên có những hình thức không đồng bộ như vậy.

Về việc phân loại A-la-hán cũng có rất nhiều loại tùy thuộc vào ý nghĩa và trình độ qua quá trình tu tập mà các kinh luận sắp xếp theo trình độ kiến giải qua sở đắc của từng loại căn cơ có được của hành giả. Theo Tạp A-tỳ-đàm tâm luận 5, Câu Xá luận 5 & 25 của Hữu bộ đem A-la-hán phân ra làm sáu loại: (1) Thối pháp A-la-hán, tức là chỉ cho những hành giả khi gặp những trở ngại trên đườ tu liền thối mất những sở đắc mà họ (A-la-hán) đã đạt được. (2) Tư pháp A-la-hán, do lòng sợ hãi thối thất quả vị, mà thường nghĩ đến việc tự sát. (3) Hộ pháp A-la-hán, nhờ quả vị chỗ đạt được thường trợ giúp lo sợ (hậu quả) mà không đưa đến sự thối đọa. (4) Trụ pháp A-la-hán, hành giả không cần đề phòng lòng thối thất, nhưng cũng không làm tăng thên lên, mà chỉ an trụ nơi quả vị đã đạt được. (5) Kham đạt pháp A-la-hán, hành giả siêng năng tu luyện, cần cầu thăng tiến. (6) Bất động pháp A-la-hán, hành giả đã đạt đến Đảnh vị, nên không thối đọa trở lại. Sáu loại A-la-hán này, đều y cứ vào căn cơ lợi độn của các vị A-la-hán mà luận phân biệt. Năm loại trước gọi là “Thời giải thoát” (giải thoát tùy thuộc vào thời gian) thuộc vào độn căn. còn loại thứ sáu gọi là “bất thời giải thoát” (giải thoát không tùy thuộc vào thời gian), thuộc vào loại lợi căn. Trong khi Trung A-hàm 30, kinh Phước điền, Cam lồ vị luận, thượng, Thành Thật luận 1, phẩm Phân biệt Hiền thánh thì, cũng chia ra làm sáu loại A-la-hán như trên, nhưng lại thêm tuệ giải thoát, câu giải thoát (hai chướng định-tuệ đều đoạn trừ), vô ngại giải thoát (đoạn được hai chướng trí-tuệ, thông đạt tất cả văn nghĩa mà được bốn vô biện, cộng lại thành chín loại và được gọi là cửu vô học. Theo Tam pháp độ luận, q. trung thì phân A-la-hán làm ba loại: Lợi căn, độn căn và, trung căn; trong lợi căn lại phân làm ba loại: Lập trụ pháp, Thăng tiến pháp và, Bất động pháp; độn căn phân ra ba loại: Thối pháp, niệm pháp và, hộ pháp; trung căn phân ra ba loại: Tuệ giải thoát, câu giải thoát và, bất câu giải thoát. Theo những cách phân loại trên cho chúng ta biết rằng sự phân loại ở đây trước hết chúng tùy thuộc vào trình độ căn cơ sở đắc sau nữa là thời gian huân tập thực hành cạn sâu ngắn dài của hành giả mà có được trong tu tập.

Tóm lại, Tứ quả Sa-môn là bốn quả vị của các hàng Thinh văn thừa từ bước chân nghịch lưu ban đầu cho đến bước cuối cùng là vào Niết-bàn tịch diệt vĩnh viễn. Khi một hành giả bước chân vào dòng nghịch lưu của dòng sinh tử luân hồi thì tự mỗi hành giả phải tùy thuộc vào hướng đi, khi hướng đi đến đã đạt thì, sau đó quả vị mới hiện hữu. Khi nào quả vị của mỗi hành giả thành tựu cho mỗi hướng đến thì sau đó hành giả mới bước được bước kế tiếp, lệ thuộc vào thời gian và sự thành tựu của pháp ấy. Tu-đà-hoàn là quả vị của những hành giả phàm phu bắt đầu nhập vào dòng Thánh đạo và, vì vậy nên bắt buộc hành giả phải đi ngược dòng sanh tử, do đó đức Đạo sư gọi bước đi của chúng ta là bước nghịch lưu, có nghĩa là mọi hành giả chúng ta phải đi ngược dòng sinh tử để đi đến Thánh đạo Niết-bàn tịch tĩnh, nếu hành giả muốn đạt được quả vị này phải đoạn trừ sạch Kiến hoặc ba cõi, để bước sang bước đi kến tiếp là Tư-đà-hàm hướng và sau đó hoàn thành Tư-đà-hàm quả. Tư-đà-hàm là quả vị của những hành giả dục giới cùng cõi trời Dục lục đã đoạn trừ được tư hoặc sáu phẩm trước trong chín địa của dục giới và, chỉ còn một lần sanh trở lại nhân gian, cho nên quả vị này cũng gọi là Nhất lai. Quả vị này vẫn còn trong dự lưu quả, nên hành giả muốn tiến lên nữa thì phải đạt hướng A-na-hàm, sau đó mới có thể hoàn thành được quả vị của nó được. A-na-hàm là quả vị của những hành giả đã đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giời và sẽ không còn sanh trở lại dục giới nữa, mà sẽ sinh về sắc giới hay vô sắc giới tùy thuộc vào kết quả sâu cạn của nó mà thôi, sau đó hành giả nhờ tu tập siêng năng tinh tấn mà đạt ala-hán hướng cuối cùng, đề sau đó hoàn thành quả vị cuối cùng trong bốn quả Sa-môn. A-la-hán là quả vị cuối cùng của bốn quả, hành giả đã đoạn trừ hết kiến và tư hai hoặc không còṇ, đó là cực quả của hàng Thinh Văn thừa, vĩnh viễn đi vào Niết-bàn không còn tái sinh vào ba cõi nữa, cho nên gọi là bất sinh.

Read More
Người đăng: Phổ Đồng on Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2010
0 nhận xét
categories: | | edit post

nhạc nền

Video-Phim

About Me

Ảnh của tôi
Vietnam
Từ vô thỉ ta luân hồi cát bụi, Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian; Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống, Trần gian ơi nghe cát bụi mơ màn. Theo khát vọng ta trầm luân gót mỏi, Đếm đường dài vết cũ bụi chưa tan; Ngoảnh mặt lại khói sương mờ phong kín, Đường qua đi mất dấu tự phương ngàn. Ta dong ruỗi lạc loài theo nắng sớm, Cùng mưa chiều tan nát mộng dưới chân; Đất khẽ gọi con gió chiều đi vắng, Về tự tình đưa tiễn mộng nghìn năm. Nghe tan vỡ từ vô thường hoa nở, Nắng nghìn năm trưa buồn lạ trong hồn; Chiều ủ rũ qua nắng tàn trăng hiện, Từng giọt vàng rơi cõi đất mông lung. Vẫn hiện thực qua sắc màu biến đổi, Chuyện trăng tàn nhớ bóng ráng chiều phong; Tựa hơi thở buồn vui nào biết nổi, Cả một đời qua sinh diệt thời gian. Chợt một sớm rảnh rang nhìn đất thở, Đá cựa mình nghe dao động không gian; Như hoa đớm hạt nắng vàng ảo hóa, Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần. Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận, Duyên trùng trùng cho đến mãi vô chung.